SKKN Một số giải pháp rèn kỹ năng đọc đúng cho học sinh trong các tiết tập đọc ở Lớp Một

Môn Tiếng Việt ở trường phổ thông có nhiệm vụ hình thành năng lực hoạt động ngôn ngữ cho học sinh. Năng lực hoạt động ngôn ngữ được thể hiện trong bốn dạng hoạt động, tương ứng với chúng là bốn kĩ năng nghe, nói, đọc, viết. Trong đó, Tập đọc là phân môn giữ vị trí hết sức quan trọng, không thể thiếu được. Nó là chìa khoá, là phương tiện để giúp học sinh Tiểu học tiếp xúc với kho tàng kiến thức vô tận của nhân loại. Những kinh nghiệm của đời sống, những thành tựu văn hóa, khoa học, tư tưởng, tình cảm của các thế hệ trước và của cả người đương thời phần lớn đã được ghi lại bằng chữ viết. Biết đọc, con người sẽ có khả năng chế ngự một phương tiện văn hóa cơ bản giúp họ giao tiếp được với thế giới một cách chủ động, có điều kiện hưởng một nền giáo dục mà xã hội dành cho họ, nhất là trong thời đại bùng nổ thông tin. Chính vì thế, dạy đọc có ý nghĩa rất to lớn ở bậc Tiểu học. Đọc trở thành đòi hỏi đầu tiên đối với mỗi người đi học. Đầu tiên trẻ phải học đọc, sau đó trẻ phải đọc để học. Đọc giúp trẻ chiếm lĩnh một ngôn ngữ để dùng trong giao tiếp và học tập; tạo ra hứng thú và động cơ học tập; tạo ra điều kiện để học sinh có khả năng tự học và tinh thần học tập cả đời. Đọc là khả năng không thể thiếu được trong thời đại văn minh.

Đọc là một dạng hoạt động ngôn ngữ, là quá trình chuyển dạng từ chữ viết sang lời nói, có âm thanh và thông hiểu nó (ứng với hình thức đọc thành tiếng), là quá trình chuyển trực tiếp từ hình thức chữ viết sang đơn vị nghĩa không có âm thanh (ứng với hình thức đọc thầm). Trong điều kiện bình thường, đọc trực tiếp có hình thức chữ viết (có văn bản trước mắt) nhưng cũng có trường hợp đọc không có hình thức chữ viết trước mắt (đó là đọc thuộc lòng). 
 

pdf 32 trang Đào Bích 27/12/2023 240
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Một số giải pháp rèn kỹ năng đọc đúng cho học sinh trong các tiết tập đọc ở Lớp Một", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfskkn_mot_so_giai_phap_ren_ky_nang_doc_dung_cho_hoc_sinh_tron.pdf

Nội dung text: SKKN Một số giải pháp rèn kỹ năng đọc đúng cho học sinh trong các tiết tập đọc ở Lớp Một

  1. Một số giải pháp rèn kỹ năng đọc đúng cho học sinh trong các tiết tập đọc ở lớp Một. trường sống qua những bài tập đọc, qua những bài làm văn hoặc qua những câu chữ dẫn ra như một ngữ liệu trong những bài tìm hiểu về Tiếng Việt. II. THỰC TRẠNG DẠY HỌC Qua nhiều năm giảng dạy và trao đổi với đồng nghiệp tôi đã có những nhận xét chung về thực trạng dạy học như sau: 1.Đối với giáo viên Tôi thấy trách nhiệm của người giáo viên rất quan trọng trong sự nghiệp trồng người. Mục tiêu của giáo dục tiểu học là hình thành cho học sinh những cơ sở ban đầu về môn Tiếng Việt trong đó có phân môn Tập đọc. Tập đọc là phân môn thực hành vì vậy nhiệm vụ của nó là hình thành kĩ năng đọc cho học sinh. Dạy đọc giáo dục lòng ham đọc sách cho học sinh giúp cho các em thấy được đây chính là con đường đặc biệt để tạo cho mình một cuộc sống trí tuệ phát triển. Tập đọc góp phần là giàu vốn kiến thức ngôn ngữ, bồi dưỡng cho học sinh lòng yêu cái thiện, cái đẹp, dạy cho các cách tư duy có hình ảnh. Xuất phát từ nhiệm vụ của môn học ,động cơ dạy học của môn học người giáo viên phải luôn nhiệt tình trong giảng dạy. Người giáo viên phải hiểu rõ nội dung bài tập đọc dể truyền đạt cho học sinh kĩ năng đọc đúng. Người giáo viên phải đọc tốt, đọc hay thì mới rèn khả năng đọc cho học sinh . 2.Đối với học sinh Qua nắm bắt chất lượng đọc của học sinh trong những năm học trước đây, tôi nhận thấy kĩ năng đọc của một số học sinh còn tồn tại. Đó là hiện tượng đọc chậm so với yêu cầu tốc độ đọc, đọc ngọng thanh (hỏi, ngã, sắc) đọc ngọng vần (vần anh, inh, ach); phát âm sai phụ âm (tr/ch, s/x, l/n); đặc biệt ngọng nhiều nhất là l/n; n đọc là l). Ví dụ : - Sai vần: anh/ăn và ach/ăt. Tiếng “Anh” học sinh đọc là “ăn” Từ “Anh em” học sinh đọc là “ăn em” Từ “Tờ tranh” học sinh đọc là “ tờ trăn” Từ “Có khách” học sinh đọc là “có khắt” - Sai thanh: Thanh ngã và thanh sắc Từ “Ăn cỗ” học sinh đọc là “ăn cố” Từ “Lọ mỡ” học sinh đọc là “lọ mớ” Từ “Hộp sữa” học sinh đọc là “hộp sứa” Từ “Cũng” học sinh đọc là “cúng” Từ “Anh dũng” học sinh đọc là “anh dúng” Từ “Quên vở” học sinh đọc là “quên vợ” - Sai phụ âm: tr/ch; s/x; l/n 5/30
  2. Một số giải pháp rèn kỹ năng đọc đúng cho học sinh trong các tiết tập đọc ở lớp Một. + Nắm vững hệ thống câu hỏi trong bài tập đọc, đưa ra thêm những câu hỏi dẫn dắt để giúp học sinh phân tích, khai thác nội dung. + Soạn bài trên giáo án PowerPoint trình chiếu các slide phù hợp với nội dung bài học. Tự quay hoặc tham khảo một số tư liệu phục vụ cho bài học. Mỗi tiết Tập đọc muốn đạt hiệu quả cao thì yêu cầu đối với người giáo viên là phải có sự chuẩn bị bài chu đáo, lập kế hoạch dạy học chi tiết, chuẩn bị những đồ dùng cần thiết. Khi dạy bất kì một bài Tập đọc nào, bao giờ tôi cũng dành một khoảng thời gian nhất định để tìm hiểu về tác giả, hoàn cảnh sáng tác, tìm hiểu nội dung, ý nghĩa của bài mà tác giả muốn gửi gắm trong tác phẩm. Đọc bài một vài lần để tìm hiểu cách đọc, dự đoán trước các tình huống có thể xảy ra để lập kế hoạch dạy học phù hợp. Để để từ đó xây dựng kế hoạch, lựa chọn hình thức tổ chức sao cho đạt hiệu quả cao nhất. Giáo viên có nghiên cứu kĩ bài trước thì mới cảm nhận được cái hay, cái đẹp, cái hồn của tác phẩm mà tác giả muốn gửi gắm trong bài và phần giảng bài của giáo viên mới hấp dẫn, thu hút học sinh hứng thú với bài học. - Việc làm trước tiên giáo viên phải đọc bài nhiều lần trước khi lên lớp. Đọc nhiều lần để đọc tốt và hiểu một cách thấu đáo nội dung bài đọc. Phải trả lời câu hỏi trong sách giáo khoa và các câu hỏi này sẽ giúp giáo viên xác định mục đích, yêu cầu nội dung và phương pháp dạy bài tập đọc. Trong bài vừa đọc giáo viên dự tính học sinh dễ mắc những lỗi nào để phát âm (đó là những tiếng khó, những tiếng dễ phát âm sai những chỗ ngắt nhịp khó, đặc biệt hoặc câu dài quá). Giọng điệu chung của cả bài như thế nào? - Sử dụng tín hiệu trong cả quá trình dạy học nói chung và dạy đọc nói riêng rất quan trọng. Bởi vì sử dụng kí hiệu tạo cho học sinh thói quen làm việc theo lệnh và sự chú ý cao từ đó giúp học sinh hoạt động một cách đồng nhất. Ví dụ : + Giáo viên chỉ thẳng thước dưới âm, vần, tiếng cho học sinh đọc trơn. + Giáo viên đặt thước nằm ngang cũng vần đó, tiếng, từ đó thì học sinh lại phải đọc phân tích( đánh vần). + Khi giáo viên chỉ vào kí hiệu 0( ở góc bảng) học sinh phải có ý thức là trật tự lắng nghe. - Chuẩn bị việc đọc của học sinh: Giáo viên hướng dẫn học sinh tâm thế đọc: Khi đọc cần ngồi ngay ngắn, khoảng cách từ mắt đến sách khoảng 30-35 cm, cổ và đầu thẳng, phải thở ra chậm để lấy hơi. Khi được gọi đọc học sinh cần phải bình tĩnh, tự tin, không hấp tấp đọc ngay. Khi đọc cần đọc đọc to, rõ ràng nhưng 7/30
  3. Một số giải pháp rèn kỹ năng đọc đúng cho học sinh trong các tiết tập đọc ở lớp Một. phải đảm bảo chất lượng đọc chuẩn: đọc đúng, rõ ràng, trôi chảy, đọc đủ lớn, nhanh vừa phải và diễn cảm. Giáo viên phải ổn định trật tự, tạo cho học sinh tâm thế ngồi đọc, hứng thú nghe đọc và yêu cầu học sinh đọc thầm theo. Khi đọc, giáo viên đứng ở vị trí bao quát được cả lớp, không nên đi lại trong khi đọc, cầm sách mở rộng, đọc đủ lớn để em học sinh xa nhất cũng nghe rõ và thỉnh thoảng mắt phải rời sách nhìn lên học sinh nhưng không làm cho bài đọc bị gián đoạn. Đọc mẫu là hình thức trực quan sinh động và có hiệu quả đáng kể, có tác dụng làm mẫu cho học sinh luyện đọc. Do đó muốn rèn đọc cho học sinh tôi luôn chuẩn bị bài chu đáo, rèn luyện đọc mẫu phù hợp với nội dung bài đọc, đọc đúng thể loại, đúng ngữ điệu, tránh đọc đều đều mà cần biết biểu hiện tình cảm của mình qua cử chỉ ánh mắt, nét mặt, nụ cười khi đọc. Ví dụ: Khi dạy bài “Trường em” tôi phải đọc giọng tình cảm, thiết tha thể hiện tình cảm của bạn nhỏ đối với ngôi trường và nhấn giọng một số từ ngữ thể hiện tình cảm: ngôi nhà thứ hai, hiền như mẹ, thân thiết như anh em. Ví dụ : Khi dạy bài “Đầm sen” tôi đọc mẫu và hướng dẫn học sinh cách đọc từng đoạn. - Đoạn 1: Đọc giọng chậm rãi, nhấn giọng các từ ngữ miêu tả vẻ đẹp của đầm sen, loài hoa sen. - Đoạn 2: Đọc giọng nhẹ nhàng, nhấn giọng các từ ngữ: xòe ra, phô đài sen, nhị vàng, thanh khiết để thấy được vẻ đẹp của hoa sen. - Đoạn 3: Giọng đọc nhẹ nhàng thấy công việc của con người đang hái hoa sen 3. Giải pháp thứ ba: Luyện đọc đúng. Đọc đúng là sự tái hiện mặt âm thanh của bài đọc một cách chính xác, không có lỗi. Đọc đúng là đọc không thừa, không sót từng âm, vần, tiếng. Đọc đúng không phải thể hiện đúng ngữ âm chuẩn, tức là đọc chính âm. Nói cách khác là không đọc theo cách phát âm địa phương lệch chuẩn. Đọc đúng bao gồm việc đọc đúng các âm thanh (đúng các âm vị) ngắt nghỉ hơi đúng chỗ (đọc đúng ngữ điệu). Luyện đọc đúng phải rèn cho học sinh thể hiện chính xác các âm vị Tiếng Việt cụ thể như sau: 3.1.Đọc đúng phụ âm đầu : a. Học sinh đọc sai “s” với “x”. “X” đọc là “xờ” không đọc là “sờ” “Xe ô tô” không đọc là “se ô tô” “S” đọc là “sờ” không đọc là “xờ” “Su su” không đọc là “xu xu” - Giáo viên phải đọc mẫu, phát âm thật chuẩn 9/30
  4. Một số giải pháp rèn kỹ năng đọc đúng cho học sinh trong các tiết tập đọc ở lớp Một. Trước tiên, phải cho học sinh biết bộ phận phát âm chủ yếu của người là khoang miệng, lưỡi, lợi, môi, răng Muốn phát âm đúng, trước hết cần thấy sự giống nhau của hai âm này. - Điểm giống nhau: cả l và n đều là âm đầu lưỡi – lợi ( hàm trên) - Điểm khác nhau: l là âm khe bên ( âm xát), n là âm tắc. Muốn phát âm đúng thì âm l thì phải nâng mặt lưỡi cong lên, chặn luồng khí đi lên mũi, đồng thời hai bên lưỡi hạ xuống để luồng không khí từ phổi lên bên phải lách qua hai bên, cọ xát vào thành má, qua miệng mà thoát ra ngoài. Khi phát âm n, hai bên lưỡi phải áp sát vào hai bên miệng, đồng thời lưỡi con hạ xuống làm cho không khí từ phổi lên không hoàn toàn qua đường miệng mà phải có một phần qua mũi để thoát ra ngoài. Có cảm giác lưỡi hơi thụt về sau, đè xuống. Giáo viên phát âm l - n để học sinh phân biệt qua thính giác. Sau đó yêu cầu học sinh phát âm đúng l - n, phải tiến hành từng bước: từ luyện âm, luyện tiếng đến luyện câu, luyện đoạn, luyện bài. - Luyện phát âm từng âm l và n nhiều lần. - Luyện phát âm theo thứ tự: âm l trước, âm n sau, rồi đảo lại nhiều lần. - Tốc độ ban đầu phát âm chậm sau nhanh dần: n-ơ-nờ (nờ) na, no,nô, nơ Tiếp đó cho học sinh phát âm lo, la, lô, lơ - Giáo viên ghép từ vào văn cảnh để học sinh có ý thức đọc đúng, đọc hiểu. Ví dụ : Quả na - bao la Ăn no - lo lắng Nô nức - sông lô - Sau đó, tìm tư liệu là những câu thơ có l – n để luyện cho học sinh. + Lúa nếp là lúa nếp làng Lúa lên lớp lớp lòng nàng lâng lâng. + Lời nói chẳng mất tiền mua Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau. + Lên non mới biết non cao Nuôi con mới biết công lao mẹ hiền. + Một cây làm chẳng lên non Ba cây chụm lại lên hòn núi cao. + Con cò, con vạc, con nông Ba con cùng béo vặt long con nào Vặt lông con cốc cho tao Tao nấu, tao nướng, tao xào, tao ăn. 11/30
  5. Một số giải pháp rèn kỹ năng đọc đúng cho học sinh trong các tiết tập đọc ở lớp Một. Ví dụ: Từ cỡ trong câu: Lá dày, “cỡ” bằng bàn tay, xanh thẫm. Giáo viên giúp học sinh từ đúng từ “cỡ” Học sinh đọc là : Lá dày, “cớ” bằng bàn tay, xanh thẫm. Giáo viên giúp học sinh từ đúng từ “cỡ” Ví dụ: Từ “giữa” và từ “sững” trong câu: “Ngay giữa sân trường, sừng sững một cây bàng”. Giáo viên cần giúp học sinh đọc đúng từ “giữa” và “sững” để câu văn không sai nghĩa. Như chúng ta biết thanh ngã có âm vực cao, độ cao bắt đầu gần ngang thanh huyền. Đường nét vận động bị gãy giữa do quá trình phát âm có hiện tượng tắc thanh hầu. Nên người ta có thể dùng thanh huyền để tạo mức độ cao tương tắc thanh hầu. Nên người ta có thể dùng thanh huyền để tạo mức độ cao lúc bắt đầu. Kết hợp với thanh nặng có yếu tố tắc ngậm giống hiện tượng tắc tương hầu của thanh ngã . Cuối cùng dùng thanh sắc để tạo đường nét vút cao. Cụ thể giáo viên hướng dẫn học sinh nối các thanh trong một phát âm: Má. Cho học sinh luyện tập và làm thao tác này nhanh hơn nhưng phải giữ đúng quy tắc: độ dài từ huyền đến nặng luôn dài hơn từ nặng đến sắc. Thanh ngã (~) sẽ được tạo thành. Sau đó cho học sinh phát âm chắc các tiếng có cùng thanh ngã cùng vần với tên gọi thanh. Bã, đã, giã, xã, hã Rồi đến chắp tiếng cùng thanh, cùng loại âm tiết với tên gọi thanh. Ví dụ: Ngỡ, khẽ, cũ, cỗ, giỗ Ở khâu luyện phát âm đúng này chúng ta nên dùng biện pháp làm mẫu thật nhiều lần với đủ loại âm tiết để học sinh có sự tự điều chỉnh trong quá trình phát âm theo. 3.4. Đọc đúng ngữ điệu Giáo viên giúp học sinh đọc đúng bao gồm cả đúng tiết tấu, ngắt hơi, nghỉ hơi, ngữ điệu câu. Ngữ điệu là hiện tượng phức tạp, có thể tách ra thành những yếu tố cơ bản có quan hệ với nhau: chỗ nghỉ, trọng tâm, âm điệu, âm nhịp và âm sắc. Dạy đọc đúng ngữ điệu là dạy cho học sinh làm chủ những yếu tố ấy. Đọc đúng ngữ điệu nói chung, ngắt giọng đúng nói riêng vừa là mục đích của dạy đọc thành tiếng vừa là phương tiện giúp học sinh chiếm lĩnh nội dung dạy học. Ở khâu này, giáo viên dựa vào nghĩa, vào quan hệ ngữ pháp giữa các tiếng để hướng dẫn học sinh ngắt hơi cho đúng. Lưu ý khi đọc không được hướng dẫn tách từ ra làm hai. Ví dụ: Bài Mưu chú Sẻ - Sách Tiếng Việt 1– tập 2. Không được đọc như sau: 13/30
  6. Một số giải pháp rèn kỹ năng đọc đúng cho học sinh trong các tiết tập đọc ở lớp Một. dụng ý người đọc nhằm gây ấn tượng về cảm xúc nhằm tạo những chỗ ngừng gây ấn tượng, tập trung sự chú ý của người nghe vào những từ ngữ sau chỗ ngừng. Những từ ngữ mang trọng âm ngữ nghĩa dạy ngắt nghỉ đúng giáo viên còn cần phải hướng dẫn học sinh ngắt hơi phù hợp với dấu câu: nghỉ hơi ít ở dấu phẩy, nghỉ hơi nhiều ở dấu chấm. Đọc đúng các ngữ điệu câu, lên giọng ở cuối câu có dấu hỏi, hạ giọng ở cuối câu kể, thay đổi giọng cho phù hợp với tình cảm diễn đạt trong câu cảm, với câu cầu khiến khi cần nhấn giọng cho phù hợp để thấy rõ các nội dung cầu khiến khác. Ngoài ra giáo viên còn hướng dẫn đọc đúng tốc độ bằng cách khi các em đã đọc đúng rồi yêu cầu các em đọc nhanh theo tốc độ, lớp 1 cần phải đọc to được một bài ngắn khoảng 30 chữ trong thời gian 1-2 phút. Khi hướng dẫn học sinh đọc đúng tôi đưa các từ khó, tôi đọc mẫu cho các em đọc kém, đọc ngọng đọc theo ví dụ : nơ, cá, lá, ca nô Hướng dẫn học sinh phân biệt cách đọc từ: “ lá mạ”, “ca nô” khác với đọc tiếng: “nơ, lá” là các em phải đọc liền hai tiếng để tạo thành từ. Hoặc khi hướng dẫn học sinh luyện đọc bài ứng dụng (ở tiết 2) tôi thường chú ý hướng dẫn các em cách đọc ở những câu văn dài, có cấu trúc ngữ pháp phức tạp. Cụ thể như : Tôi đọc mẫu thì học sinh phát hiện xem tôi ngắt nghỉ ở những chỗ nào, nhấn giọng ở những từ ngữ nào? Từ đó xem các em sẽ đọc đúng và hay hơn. Ví dụ: Khi đọc mẫu đoạn văn ứng dụng trong bài 66: uôm- ươm (Tiếng Việt 1) Những bông cải nở rộ/ nhuộm vàng cả cánh đồng.// Trên trời, bướm bay lượn từng đàn.// Khi đọc mẫu đoạn văn ứng dụng trong bài 71: et-êt ( Tiếng Việt 1) Chim tránh rét/ bay về phương nam.// Cả đàn đã thấm mệt/ nhưng vẫn cố bay theo hàng.// Tôi đặt câu hỏi: - Cô đã ngắt nghỉ ở đâu? - Nhấn giọng ở những từ nào? Ví dụ : Khi đọc mẫu đoạn thơ trong bài 71: uôt- ươt( Tiếng Việt 1) “Con mèo/ mà trèo cây cau// Hỏi thăm chú chuột/ đi đâu vắng nhà// Chú chuột đi chợ /đàng xa// Mua mắm,/ mua muối,/ giỗ cha chú mèo//” Để học sinh đọc đúng tôi hướng dẫn các em ngắt nhịp theo đúng dòng thơ, cách ngắt nhịp theo đúng dòng thơ, cách nhấn giọng ở những từ đã gạch chân, nhờ hướng dẫn tỉ mỉ, chu đáo các em đã đọc lưu loát, rõ ràng, mạch lạc, tạo đà cho học kì 2 ( luyện tập tổng hợp) 15/30
  7. Một số giải pháp rèn kỹ năng đọc đúng cho học sinh trong các tiết tập đọc ở lớp Một. Thông qua trò chơi không khí lớp học trở nên thoải mái, dễ chịu. Việc tiếp thu kiến thức của học sinh trở nên tự nhiên, nhẹ nhàng và hiệu quả hơn. Trò chơi học tập cần có yêu cầu: + Chơi để đạt mục đích học tập nào? Ngoài giải trí còn có mục đích cũng cố tri thức, kỹ năng học tập. + Nội dung học tập phải gắn với các tri thức và kỹ năng của một nhóm học hoặc một lĩnh vực tri thức, kỹ năng nào đó. Nói cách khác khi sáng tạo ra trò chơi thì người giáo viên cần dựa vào các kiến thức và kỹ năng của môn học. + Trò chơi học tập cần có luật chơi rõ ràng đơn giản, dễ nhớ, dễ thực hiện không đòi hỏi thời gian dài. Trò chơi học tập thường diễn ra thời gian ngắn, phù hợp với trình độ học sinh. Muốn đạt được điều đó, giáo viên cần biết khơi ngợi sự hứng thú, hào hứng cho các em trong mỗi tiết học. Trò chơi học tập là hình thức hầu hết học sinh nào cũng thích, cũng muốn được tham gia. Đây là hình thức học tập gây hứng thú cho học sinh nhất mà đạt hiệu quả cao vì nó phù hợp với tâm lí lứa tuổi Tiểu học “Học mà chơi - Chơi mà học”. Vì vậy, khi dạy các bài tập đọc học thuộc lòng, tôi thường tổ chức cho học sinh lớp mình thi đọc thuộc bài dưới hình thức các trò chơi như sau: * Trò chơi 1: “Ai thuộc bài nhanh”. Cách chơi như sau: - Giáo viên chuẩn bị 4 bộ đồ dùng dạy học (ứng với 4 tổ). Mỗi bộ gồm các băng giấy, mỗi băng giấy ghi dòng thơ đầu của khổ thơ. - Các tổ cử đại diện của tổ mình lên nhận các băng giấy (Số lượng học sinh mỗi tổ bằng số lượng băng giấy). Sau đó ghép các băng giấy đó theo đúng thứ tự các khổ thơ của bài (Giáo viên quy định thời gian chơi). Khi hết thời gian, nếu học sinh ghép đúng, giáo viên hỏi nội dung, ý nghĩa 1,2 câu trong bài. Tổ nào ghép đúng, nhanh và trả lời đúng câu hỏi thì tổ đó được nhận phần thưởng. Ví dụ: Bài “ Ngôi nhà ” ( Tuần 28 - Sách Tiếng Việt tập 2 – trang 82) Để kiểm tra việc học sinh học thuộc lòng bài học chưa, tôi đã tổ chức cho học sinh chơi trò chơi như sau: Giáo viên chuẩn bị 4 bộ đồ dùng, mỗi bộ gồm 3 băng giấy: Một băng giấy ghi từ “ Em yêu nhà em” Một băng giấy ghi từ “ Hàng xoan trước ngõ ” Một băng giấy ghi từ “ Hoa xao xuyến nở” Một băng giấy ghi từ “ Như mây từng chùm” 17/30
  8. Một số giải pháp rèn kỹ năng đọc đúng cho học sinh trong các tiết tập đọc ở lớp Một. được chỉ định đứng lên mà không thuộc bài thì đứng ra một bên) và nhóm được chỉ định sẽ chỉ định bạn khác. Cứ như vầy cho đến khi kết thúc bài, nhóm nào có số học sinh đứng ra ngoài nhiều thì nhóm đó thua cuộc. * Trò chơi 5: “Thi đọc bài hay” Cách chơi như sau: - Giáo viên thiết kế trên bài giảng điện tử các bông hoa hoặc các con vật. Dưới mỗi bông hoa hoặc con vật là các yêu cầu (Có thể ghi từ đầu tiên, dòng thơ đầu tiên của khổ thơ hoặc ghi yêu cầu đọc thuộc khổ thơ nào hay đọc thuộc cả bài thơ), số lượng bông hoa hoặc con vật tương ứng với số khổ thơ trong bài. - Mời học sinh tham gia chơi: Mỗi học sinh sẽ chọn cho mình một bông hoa hoặc một con vật mà mình thích, sau đó thực hiện yêu cầu được ghi dưới bông hoa hoặc con vật đó. Cả lớp và giáo viên theo dõi, bình chọn cá nhân đọc tốt nhất. Hoặc nếu đọc đúng thì các em được quyền chọn một hộp quà (giáo viên đã chuẩn bị sẵn). Ví dụ: Bài “Chuyện ở lớp” (Tuần 30 - Sách Tiếng Việt tập 2 – trang 100) - Để kiểm tra việc học sinh học thuộc lòng bài thơ, tôi đã tiến hành dưới hình thức trò chơi “Thi đọc bài hay” như sau: - Thiết kế trên bài giảng điện tử 4 bông hoa: + Bông hoa hồng: Mẹ có biết + Bông hoa cúc: Mẹ có biết + Bông hoa hướng dương: Vuốt tóc con + Bông hoa ly: Đọc thuộc lòng cả bài - Đồng thời, tôi cũng thiết kế trên bài giảng điện tử gồm 4 hộp quà, dưới mỗi hộp quà có ghi tên một món quà. Khi học sinh đọc đúng yêu câu nêu dưới bông hoa thì được quyền chọn một món quà. Khi tổ chức trò chơi như vậy, tôi thấy rằng các em rất hứng thú với bài học, tiết học rất sôi nổi mà đạt hiệu quả. Trên thực tế giảng dạy việc tổ chức trò chơi học tập đã tạo hứng thú và thu hút nhiều học sinh tham gia. Giáo viên biết sử dụng đúng lúc, đúng chỗ, các trò chơi học tập có tác dụng tích cực tạo chất lượng cao cho bài học. Chúng ta cũng nên tránh tổ chức trò chơi lặp đi lặp lại trong tiết học gây sự nhàm chán cho học sinh. Tuỳ theo tiết học giáo viên có thể vận dụng linh hoạt tổ chức trò chơi cho từng phần bài dạy của mình thì hiệu quả giờ dạy đạt hiệu quả. Qua nhiều năm giảng dạy, với tất cả sự tâm huyết của mình bản thân tôi đã tìm tòi, tự trau dồi chuyên môn, rút kinh nghiệm bản thân trong việc thực 19/30
  9. Một số giải pháp rèn kỹ năng đọc đúng cho học sinh trong các tiết tập đọc ở lớp Một. GV nhận xét ,đánh giá 2’ III. Bài mới HS quan sát , trả lời 1.Giới thiệu bài (bố xem bạn nhỏ viết Bài Cái nhãn vở Bức tranh vẽ hình ảnh gì ? nhãn vở . Mục tiêu:HS nắm được HS nghe, nhắc lại tên tên bài, nội dung yêu -GV giới thiệu ,viết tên bài bài cầu của bài lên bảng HS viết tên bài vào 15’ vở 2.Luyện đọc Mục tiêu:Giúp HS đọc GV đọc mẫu lần 1 HS nghe ,đọc thầm đúng các từ khó ,các GV đọc với giọng chậm bài câu văn câu , đoạn , cả rãi, nhẹ nhàng bài và hiểu nghĩa từ nắt GV yêu cầu HS mở sách nót trang 52 *Luyện đọc từ ngữ : -Tìm trong bài những từ trang bìa , trang trí, chứa tiếng có âm tr, n ? HS mở sách trường , nắn nót GV gạch chân từ -Tiếng trang gồm có âm HS dùng bút chì gạch nào ghép với vần và dấu chân tiếng âm tr , n thanh nào ? vào SGK GV yêu cầu HS phân tích , HS nêu từ ( trang bìa đánh vần tiếng trang , trang trí , trường , -Khi đọc những tiếng có nắn nót âm tr các con chú ý cách phát âm như thế nào ? HS quan sát GV hướng dẫn cách phát 2HS phân tích , đánh âm (dầu lưỡi uốn chạm vần vào vòm cứng , bật ra không có tiếng thanh ) 1 HS trả lời (đọc uốn GV gọi HS đọc lưỡi, bật mạnh) -Giải nghĩa từ nắn nót - Theo con viết nắn nót là viết như thế nào ? HS nghe GV chốt ý GV yêu cầu HS phân tích, 3 HS đọc , tổ , lớp đánh vần tiếng nắn , nót đọc -Khi đọc những tiếng có 1 -2 HS trả lời ( viết âm n các con chú ý cách cẩn thận từng li từng 21/30
  10. Một số giải pháp rèn kỹ năng đọc đúng cho học sinh trong các tiết tập đọc ở lớp Một. GV gọi 2HS đọc từng đoạn Đoạn 2: Bố nhìn hết * GV yêu cầu HS thi đọc nối tiếp đoạn lần 2 2 HS đọc GV yêu cầu HS nhận xét HS khác nhận xét -Trong 2 nhóm , nhóm nào 2 nhóm thi đọc đọc tốt nhất ? Bạn nào đọc HS khác nhận xét to ,rõ ràng ? 2-3 HS đọc GV động viên HS HS khác nhận xét *Luyện đọc cả bài GV yêu cầu Lớp đọc đồng thanh 3’ *TCVĐ: Tập tầm vông Nêu yêu cầu Cả lớp chơi Mục tiêu :HS biết chơi trò chơi tạo tâm thế vui vẻ 12’ 3.Ôn các vần ang ,ac -Tìm tiếng trong bài có vần 2 HS trả lời ( Giang, Mục tiêu : HS biết tìm ang ? trang ) tiếng trong bài có vần GV gạch chân từ ang , tìm tiếng ngoài bài -Tiếng Giang , trang gồm có vần ang ,ac âm nào ghép với vần nào 1 HS nêu *Tìm tiếng trong bài có GV yêu cầu phân tích , 1 -2 HS phân tích, vần ang đánh vần tiếng Giang đánh vần -Tại sao tiếng Giang được viết hoa ? *Tìm tiếng ngoài bài có Gọi HS đọc yêu cầu bài tập 1 HS trả lời (Tên vần ang ,ac 2 riêng của người ) M: cái bảng, con hạc, GV yêu cầu HS so sánh 2 1HS đọc yêu cầu bản nhạc vần ang ,ac 1-2 HS so sánh ( 2 vần đều có âm a đứng đầu , khác nhau vần ang có âm ng GV chốt ý đứng cuối , vần ac có -Bức tranh vẽ gì ? am c đứng cuối) Yêu cầu đọc từ cái bảng -Cái bảng dùng để làm gì ? 1 HS nêu ( cái bảng) 1-2 HS đọc -Tìm trong từ cái bảng 2-3 HS trả lời ( để tiếng nào chứa vần ang ? viết chữ và số ) 23/30