SKKN Một số biện pháp giúp học sinh nhận biết và vận dụng tốt phép so sánh tu từ trong phân môn Luyện từ và câu ở Lớp 3

Đối với học sinh Lớp 3, So sánh là mảng kiến thức mới song cũng phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý của học sinh Tiểu học: giàu trí tưởng tượng, giàu cảm xúc, cách suy nghĩ hồn nhiên, trong sáng…Biện pháp so sánh có khả năng khắc họa hình ảnh và gây ấn tượng mạnh mẽ làm nên một hình thức miêu tả sinh động, mặt khác so sánh còn có tác dụng làm cho lời nói rõ ràng, cụ thể sinh động, diễn đạt được mọi sắc thái biểu cảm. So sánh tu từ còn là phương thức bộc lộ tâm tư tình cảm một cách kín đáo và tế nhị. Như vậy so sánh trong văn học mang chức năng nhận thứcbiểu cảm. Học tốt biện pháp So sánh sẽ giúp các em hiểu và cảm nhận được cái hay, cái đẹp trong những câu văn, những bài văn, bài thơ. Qua đó góp phần mở mang tri thức, làm phong phú tâm hồn để giúp các em viết được những câu văn hay, gợi tả, gợi cảm và những bài văn giàu cảm xúc. Không chỉ có vậy, nó còn giúp cho các em học tốt thể loại văn miêu tả ở Lớp 4 và Lớp 5, thể loại văn nghệ thuật sử dụng lời văn có hình ảnh và cảm xúc làm cho người nghe, người đọc hình dung rõ nét, cụ thể, sinh động về các sự vật hiện tượng…

Hơn thế nữa, biện pháp So sánh còn giữ vai trò quan trọng trong việc diễn đạt tư tưởng, tình cảm thích hợp với việc biểu đạt các đặc điểm, thuộc tính riêng vốn có của các sự vật, hiện tượng… tạo nên những bức tranh sinh động với gam màu ấn tượng bằng ngôn từ.

Chính vì vậy, dạy So sánh được rất nhiều giáo viên quan tâm, nhất là giáo viên dạy lớp 3. Vấn đề được đặt ra là dạy như thế nào cho hợp lý nhất, học sinh nắm bài tốt nhất để từ đó các em biết cách vận dụng vào những bài văn một cách chính xác và đạt hiệu quả cao.

Qua thực tế ở trường mình dạy và trao đổi với các bạn bè đồng nghiệp ở trường bạn, tôi thấy các giáo viên đều hiểu rõ tầm quan trọng của phân môn Luyện từ và câu cũng như cái hay cái mới của phân môn này. Do có những nét mới trong phân môn này nên khi dạy về biện pháp tu từ so sánh, nhiều giáo viên đã biến giờ học Luyện từ và câu thành một giờ “giảng văn” nhằm lột tả cái hay, cái đẹp trong mỗi hình ảnh so sánh. Điều đó hoàn toàn sai phương pháp đặc trưng của phân môn, dẫn đến học sinh không không nắm được kiến thức trọng tâm của bài, chính vì vậy mà các em không mấy hứng thú trong học tập dẫn đến hiệu quả học tập không cao. Là một giáo viên dạy lớp 3 lâu năm, có kinh nghiệm, việc nghiên cứu về nội dung và phương pháp dạy học không chỉ là trách nhiệm mà còn là niềm say mê, sự yêu nghề của tôi.

 

Nhận rõ tầm quan trọng của việc dạy biện pháp tu từ so sánh cho học sinh để các em biết vận dụng vào nói và viết văn, ngay từ đầu năm học tôi đã đi sâu nghiên cứu và tìm ra Một số biện pháp giúp học sinh nhận biết vàvận dụng tốt phép so sánh tu từ trong phân môn Luyện từ và câu ở lớp 3

docx 30 trang Đào Bích 25/12/2023 3800
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Một số biện pháp giúp học sinh nhận biết và vận dụng tốt phép so sánh tu từ trong phân môn Luyện từ và câu ở Lớp 3", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • docxskkn_mot_so_bien_phap_giup_hoc_sinh_nhan_biet_va_van_dung_to.docx

Nội dung text: SKKN Một số biện pháp giúp học sinh nhận biết và vận dụng tốt phép so sánh tu từ trong phân môn Luyện từ và câu ở Lớp 3

  1. với “ lá” như vậy là sai. Đáp án ở đây phải là “ hạt sương sớm” được so sánh với “ bóng đèn pha lê”. Hay trong các câu thơ sau: Mùa đông Trời là cái tủ ướp lạnh Mùa hè Trời là cái bếp lò nung. Các em thường xác định sai là mùa đông so sánh với tủ ướp lạnh mùa hè so sánh với bếp lò nung Tạo hình ảnh so sánh chưa hợp lý Học sinh đặt câu có hình ảnh so sánh “Con đường thẳng tắp như một chiếc thước kẻ.” Hầu hết các em chỉ biết tạo ra hình ảnh so sánh mà thiếu đi tính thẩm mĩ của nghệ thuật so sánh. Chưa cảm nhận được giá trị của phép so sánh. Chẳng hạn với những câu hỏi như : Trong các hình ảnh so sánh có ở trong bài, em thích hình ảnh nào? Vì sao? Các em chỉ nêu được hình ảnh so sánh mình thích chứ không giải thích được vì sao thích. Để kiểm tra khả năng nắm bài cũng như theo dõi sự tiến bộ của học sinh, tôi đã tiến hành khảo sát học sinh trước khi áp dụng biện pháp mới. Sau khi học xong tiết về so sánh ở tuần 1 và tuần 3, tôi đã chọn bài tập trong tiết Luyện từ và câu của tuần 5 làm bài tập khảo sát. Kết quả thu được như sau: Mức độ Số lượng học sinh Tỉ lệ (%) Nhận biết tốt biện pháp tu từ so sánh 10 em 22% Nhận biết chưa tốt biện pháp tu từ so sánh 8 em 18% Chưa nhận biết được biện pháp tu từ so sánh 27 em 60% Băn khoăn trước kết quả còn thấp của học sinh lớp mình, tôi đã tìm hiểu ra những nguyên nhân nêu trên và mạnh dạn đưa ra các biện pháp giúp học sinh nhận biết và vận dụng tốt hơn phép tu từ so sánh. 5
  2. Đặc trưng của phân môn Luyện từ và câu có những điểm mới so với sách giáo khoa cũ là học sinh tự rút ra kiến thức qua việc thực hành làm các bài tập. Vì vậy, dựa vào nội dung, chương trình như trên tôi đã khái quát lại chương trình thành các dạng bài tập về biện pháp so sánh như sau: 2. Các dạng bài tập về biện pháp so sánh: Nhận biết những sự vật so sánh, những hình ảnh so sánh, những đặc điểm so sánh và những từ so sánh trong câu: Tiết 1, 2, 3, 4, 5, 6. Cảm nhận và nêu tác dụng của so sánh, tập đặt câu có sử dụng phép so sánh: Tiết 7 Như vậy, mỗi tiết học về so sánh có yêu cầu khác nhau. Tiết học sau đòi hỏi kiến thức cao hơn tiết học trước, mỗi tiết học cung cấp một mảng kiến thức, một dạng bài tập. Vì thế tôi tìm hiểu kỹ nội dung, mức độ kiến thức cần truyền đạt của từng tiết để tạo thành mạch kiến thức có liên kết một cách chặt chẽ logic. * Một số yêu cầu cơ bản khi dạy so sánh Học sinh Tiểu học với nhận thức từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng nên việc hướng dẫn các em tìm hiểu những biện pháp tu từ không phải là dễ. Bởi vậy, khi dạy phép so sánh trong phân môn luyện từ và câu cho học sinh, tôi đã chú ý đến những yêu cầu cơ bản sau: Sử dụng đồ dùng trực quan và thông qua các ví dụ cụ thể để dẫn dắt học sinh dần dần hiểu, nắm bắt, vận dụng biện pháp tu từ so sánh theo mức độ từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp để từ đó nâng dần khả năng tư duy, óc sáng tạo cho học sinh. Thông qua các bài tập nhận biết, học sinh được luyện tập và vận dụng biện pháp tu từ so sánh trong khi nói và viết. Bên cạnh đó, học sinh còn cần được tiếp xúc với ngôn ngữ nghệ thuật để biết cách cảm thụ cái hay, cái đẹp của thơ văn. Biện pháp 2: Tìm hiểu khái niệm, cấu trúc của phép tu từ so sánh Để dạy tốt kiến thức về so sánh thì người giáo viên phải nắm vững kiến thức về phong cách học nói chung và phép so sánh tu từ nói riêng. Có như vậy giáo viên mới chủ động trong bài giảng cũng xử lý tốt các tình huống. 1. Khái niệm: So sánh tu từ là biện pháp tu từ trong đó người ta đối chiếu các sự vật với nhau miễn là giữa các sự vật có một nét tương đồng nào đó để gợi ra hình ảnh cụ thể,những cảm xúc thẩm mĩ trong nhận thức của người đọc và người nghe. Khi so sánh phải có ít nhất hai sự vật trở lên. Trong đó có sự vật so sánh (A) và sự vật được so sánh (B). Hai sự vật này phải có ít nhất một nét tương đồng. Hiệu quả của phép tu từ so sánh là gợi ra những hình ảnh cụ thể, những cảm xúc thẩm mĩ. 2. Phân biệt sự khác nhau giữa so sánh tu từ và so sánh logic: So sánh logic là một biện pháp nhận thức trong tư duy của con người, là việc đặt hai hay nhiều sự vật, hiện tượng vào các mối quan hệ nhất định nhằm tìm ra sự giống nhau và khác biệt giữa chúng. 7
  3. Theo cấu trúc như trên, đối tượng được so sánh và đối tượng đưa ra để làm chuẩn so sánh có thể là sự vật, con người, âm thanh, đặc điểm, hoạt động Dựa vào cấu trúc có thể chia ra các dạng so sánh sau: * Dạng 1: Phép so sánh đầy đủ cả 4 yếu tố: Ví dụ:Trăng tròn như cái đĩa 1 2 3 4 * Dạng 2: Phép so sánh vắng yếu tố (2) So sánh vắng yếu tố (2) còn gọi là so sánh chìm, tức là không có cơ sở so sánh. Khi bớt cơ sở so sánh thì phần thuyết minh miêu tả cái được so sánh sẽ rõ ràng hơn.Nó còn tạo điều kiện cho sự liên tưởng rộng rãi, phát huy sự sáng tạo của người đọc, người nghe hơn là so sánh có đủ 4 yếu tố. Dạng so sánh này kích thích thích sự làm việc của trí tuệ và tình cảm nhiều hơn để có thể xác định được những nét giống nhau giữa 2 đối tượng ở 2 vế và từ đó nhận ra đặc điểm của đối tượng được miêu tả. Ví dụ : Công cha như núi Thái Sơn Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra. * Dạng 3: Phép so sánh vắng yếu tố (2) và (3) Đây là dạng so sánh không đầy đủ, chỉ có cái so sánh và cái được so sánh.Trong trường hợp này yếu tố (2) và yếu tố (3) được thay thế bằng chỗ ngắt giọng, dấu gạch ngang hoặc là hình thức đối chọi. Ví dụ: Thân dừa bạc phếch tháng năm Quả dừa - đàn lợn con nằm trên cao Đêm hè hoa nở cùng sao Tàu dừa - chiếc lược chải vào mây xanh. Trong đoạn thơ trên, nhà thơ đã dùng chỗ ngắt giọng (được ghi lại bằng dấu gạch ngang) và đối chọi (giữa quả dừa và tàu dừa) để tạo nên một hình thức so sánh có âm điệu nhịp nhàng. Trong so sánh tu từ, còn có hình thức kết hợp một vế so sánh, một đối tượng so sánh với nhiều đối tượng được so sánh. Ví dụ: Bác là cha, là bác, là anh. Dựa vào mặt ngữ nghĩa thì so sánh tu từ có 2 dạng: so sánh ngang bằng và so sánh hơn - kém. + Dạng so sánh ngang bằng. Đây là dạng so sánh phổ biến thường dùng từ “ như”, “ là”, “tựa”, “ tựa như” để làm từ so sánh. Ví dụ: Giọt sương sớm long lanh như những hạt ngọc. + Dạng so sánh hơn- kém Đây là dạng so sánh luôn gắn với từ hơn : khỏe hơn, đẹp hơn hoặc chẳng bằng. 9
  4. + “ Dấu hỏi” so sánh với “vành tai nhỏ”. Nếu giáo viên hỏi ngược lại là vì sao “Hai bàn tay em” được so sánh với “hoa đầu cành” hay vì sao nói “ Mặt biển” như “tấm thảm khổng lồ”? Lúc đó giáo viên phải hướng học sinh tìm xem các sự vật này đều có điểm nào giống nhau, chẳng hạn: + Hai bàn tay của bé nhỏ xinh như một bông hoa. + Mặt biển và tấm thảm đều phẳng, êm và đẹp. Cánh diều hình cong cong, võng xuống giống hệt như dấu á. Trên thực tế ấn tượng thính giác kết hợp với ấn tượng thị giác giúp các em dễ dàng nhận ra hiện tượng so sánh ẩn chứa trong các câu thơ, câu văn nên tôi đã cho học sinh xem ảnh “cánh diều” và “dấu á”. Còn dấu hỏi cong cong, nở rộng ở hai phía trên rồi nhỏ dần chẳng khác gì vành tai thì tôi cho học sinh nhìn vào vành tai bạn. Cuối cùng tôi đưa ra kết luận: Các tác giả quan sát rất tài tình nên đã phát hiện sự giống nhau giữa các sự vật xung quanh ta. Bởi vậy, khi so sánh cần có hai sự vật đưa ra, hai sự vật đó phải có điểm giống, điểm tương đồng với nhau. Và trong hai sự vật đó (1 sự vật được so sánh, 1 sự vật đưa ra làm chuẩn để so sánh) thường được đặt trước và sau từ “như”. Đây là một dấu hiệu để nhận ra các sự vật được so sánh với nhau trong câu. * Ví dụ 2: Tiết 2 - Tuần 3 (Bài tập 1 + 2/ Trang 24 - Tiếng Việt 3, Tập 1) - Tìm các hình ảnh so sánh trong các câu văn, câu thơ sau. Nêu các từ chỉ sự so sánh. a) Mắt hiền sáng tựa vì sao Bác nhìn đến tận Cà Mau cuối trời. Thanh Hải b) Em yêu nhà em Hàng xoan trước ngõ Hoa xao xuyến nở Như mây từng chùm. Tô Hà c) Mùa đông Trời là cái tủ ướp lạnh Mùa hè Trời là cái bếp lò nung. Lò Ngân Sủn d) Những đêm trăng sáng, dòng sông là một đường trăng lung linh dát vàng. Đất nước ngàn năm Ở bài tập này tôi cho học sinh thảo luận nhóm. Bằng kiến thức đã học ở tiết 1(Tuần 1), các em dễ dàng nhận ra các hình ảnh so sánh trong các câu thơ, câu văn: a) Mắt hiền sáng tựa vì sao b) Hoa xao xuyến nở 11
  5. Như vậy, yêu cầu của bài học đã nâng cao dần so với tiết 1. Học sinh không chỉ nêu được các sự vật so sánh, từ chỉ sự so sánh “như” mà còn nêu được các từ chỉ sự so sánh thường dung: như, là, tựa như, tựa, Tôi nhấn mạnh để học sinh hiểu: Từ chỉ sự so sánh chính là dấu hiệu để nhận biết câu văn, câu thơ có hình ảnh so sánh. Sau tiết học, nhằm củng cố lại kiến thức cho học sinh, tôi yêu cầu học sinh làm bài tập sau: Tìm các sự vật được so sánh, sự vật dùng để so sánh và từ so sánh trong câu sau: Trên trời mây trắng như bông Ở dưới cánh đồng bông trắng như mây. Dựa vào các từ so sánh vừa tìm được, tôi hướng dẫn học sinh nhận diện kiểu so sánh mới (so sánh hơn kém); từ đó phân biệt được 2 kiểu so sánh bằng các câu hỏi: + Trong câu a, cách so sánh “Cháu khỏe hơn ông nhiều” và “Ông là buổi trời chiều” có gì khác nhau? Hai sự vật được so sánh với nhau trong mỗi câu là ngang bằng nhau hay hơn kém nhau? Trả lời: - Câu “Cháu khỏe hơn ông nhiều”, hai sự vật so sánh với nhau là “ông” và “cháu”; hai sự vật này không ngang bằng nhau mà có sự chênh lệch hơn kém (cháu hơn ông). - Câu “Ông là buổi trời chiều”, hai sự vật này có sự ngang bằng nhau. + Sự khác nhau về cách so sánh của hai câu này do đâu tạo nên? (Trả lời: Do từ so sánh khác nhau tạo nên. Từ “hơn” chỉ sự hơn kém, từ “là” chỉ sự ngang bằng nhau). Sau khi học sinh nhận biết được hai kiểu so sánh, giáo viên cho học sinh xếp các hình ảnh vào hai nhóm: + So sánh ngang bằng + So sánh hơn kém Đặc biệt, ở bài học này, tôi đã nhấn mạnh cho học sinh: Sự khác nhau về cách so sánh là do từ chỉ sự so sánh tạo nên: + Nếu từ so sánh là: tựa, như, là, giống như, như là, bằng -> thuộc kiểu so sánh ngang bằng. + Nếu từ so sánh là: hơn, chẳng bằng -> thuộc kiểu so sánh hơn kém. Như vậy, qua 3 tiết học, mặc dù đều là dạng bài tập nhận biết hình ảnh so sánh, từ so sánh nhưng học sinh đã nắm bắt được kiểu so sánh và được nâng dần theo mức độ từ dễ đến khó. Đây cũng là quan điểm chung của tất cả các môn học ở Tiểu học. * Ví dụ 4: Tiết 5 - Tuần 10 13
  6. mình khám phá, tìm hiểu để tìm ra được những hoạt động được so sánh với nhau trong bài tập 2. * Bài tập 2 /Trang 98- Tiếng Việt 3, tập 1 Trong các đoạn trích sau, những hoạt động nào được so sánh với nhau: a. Con trâu đen lông mượt Cái sừng nó vênh vênh Nó cao lớn lênh khênh Chân đi như đập đất b. Cau cao cao mãi Tàu vươn tới trời Như tay ai vẫy Hứng làn mưa rơi c. Xuồng con đậu quanh thuyền lớn giống như đàn con nằm quanh bụng mẹ. Khi có gió, thuyền mẹ cót két rên rỉ, đám xuồng con lại húc húc vào mạn thuyền mẹ như đòi bú tí. Sau khi học sinh trao đổi, nêu ý kiến, giáo viên hệ thống lại kiến thức của bài tập 2 qua bảng sau nhằm giúp học sinh nắm chắc cấu trúc của so sánh: Từ Sự vật, Hoạt động so Hoạt động con vật sánh a) Con trâu đen (chân) đi như đập đất b) Tàu cau vươn như tay (vẫy) c) Xuồng con đậu (quanh thuyền lớn) như nằm (quanh bụng mẹ) húc húc (vào mạn thuyền mẹ) đòi (bú tí) Dạng bài tập này tôi giúp học sinh nắm chắc được các từ chỉ hoạt động, từ đó học sinh sẽ tìm được các hoạt động được so sánh với nhau. Chẳng hạn: + Hoạt động “đi” so sánh với hoạt động “đập đất” qua từ “như”. * Như vậy qua 6 tiết học, học sinh đã nhận biết được các sự vật so sánh, các từ so sánh, kiểu so sánh và các cách so sánh. Trong mỗi tiết học, mỗi bài tập về dạng nhận biết trên, học sinh lại được cảm nhận cái hay, cái đẹp của những câu văn có hình ảnh so sánh. Cụ thể như sau: 2. Dạng bài tập cảm nhận và nêu tác dụng của so sánh 15
  7. Đây là bài tập học sinh bước đầu làm quen với việc đặt câu có hình ảnh so sánh. Vì vậy, ở bài tập này, tôi cho học sinh phân tích mẫu và chỉ ra kiểu so sánh trong bài là so sánh ngang bằng. Với kiểu so sánh đó, học sinh sẽ tìm được rất nhiều từ ngữ thay thế: như, như là, tựa, tựa như, giống như Khi học sinh đã viết được những câu văn có hình ảnh so sánh, tôi cho học sinh làm một bài tập đơn giản sau: Viết câu văn so sánh các sự vật với nhau: a. Cánh đồng lúa tấm thảm b. Mặt hồ chiếc gương bầu dục Với bài tập này, ngoài việc tìm ra được phép so sánh, bằng óc liên tưởng của mình học sinh sẽ tìm được những điểm giống nhau của các sự vật để đặt câu: a. Cánh đồng lúa chín vàng trông như tấm thảm khổng lồ. b. Từ trên cao nhìn xuống, mặt hồ như một chiếc gương bầu dục lớn. * Ví dụ 2: Tiết 7 - Tuần 15 (Bài tập 3/ Trang 126 - TV3,Tập 1) Quan sát từng cặp sự vật được vẽ dưới đây rồi viết những câu văn có hình ảnh so sánh các sự vật trong tranh. Ở bài tập này, sách giáo khoa cung cấp sẵn nội dung so sánh qua các tranh vẽ từng cặp sự vật có điểm giống nhau. Việc cần làm của học sinh là xác định được sự vật so sánh và sự vật đưa ra để làm chuẩn so sánh ở từng cặp là gì, sau đó căn cứ vào các cặp tranh để tìm ra sự giống nhau (tương đồng nhau) giữa các cặp sự vật trong tranh, từ đó đặt câu có hình ảnh so sánh các sự vật đó. Để tạo hứng thú cho học sinh đặt câu, tôi phóng to bức tranh trong sách giáo khoa và hướng dẫn học sinh nói tên các cặp sự vật có trong mỗi tranh. - Tranh 1: + Mặt trăng so sánh với quả bóng - Tranh 2: + Nụ cười của bé so sánh với bông hoa + Khuôn mặt của bé so sánh với bông hoa - Tranh 3:+ Ngọn đèn so sánh với ngôi sao + Ngọn đèn so sánh với ánh trăng - Tranh 4:+ Hình dáng nước ta được so sánh với chữ S 17
  8. Tập làm văn, Từ đó học sinh được củng cố, khắc sâu, mở rộng thêm kiến thức về So sánh. * Ví dụ: Bài tập đọc Ông ngoại (Tuần 5) có đoạn văn tả thành phố sắp vào thu như sau: Thành phố sắp vào thu. Những cơn gió nóng mùa hè đã nhường chỗ cho luồng khí mát dịu mỗi sáng. Trời xanh ngắt trên cao, xanh như dòng sông trong, trôi lặng lẽ giữa những ngọn cây hè phố. Sau phần tìm hiểu đoạn, tôi yêu cầu học sinh tìm câu văn có hình ảnh so sánh trong đoạn và chỉ ra hình ảnh so sánh trong câu. Hình ảnh so sánh giúp em hiểu thêm điều gì? (Câu: Trời xanh ngắt trên cao, xanh như dòng sông trong, trôi lặng lẽ giữa những ngọn cây hè phố. Hình ảnh so sánh: Trời - dòng sông trong. Hình ảnh so sánh giúp người đọc hình dung rõ hơn về bầu trời mùa thu.) Qua hình ảnh so sánh đó các em sẽ biết cách vận dụng để viết về cảnh đẹp của quê hương trong bài Tập làm văn của mình. * Không chỉ dừng lại ở đó, trong các tiết hướng dẫn học buổi chiều, mỗi dạng bài So sánh tôi còn ra thêm cho học sinh một số bài tập nhằm củng cố, khắc sâu kiến thức về so sánh để các em có thể viết được những câu văn, những đoạn văn hay và biết cách cảm thụ văn học một cách tốt nhất. Biện pháp 4: Giúp học sinh củng cố kiến thức về biện pháp so sánh qua hệ thống bài tập mở rộng. 1. Dạng bài tập nhận diện những sự vật được so sánh, những hình ảnh so sánh, những đặc điểm so sánh và những từ so sánh trong câu. Bài 1: Tìm các hình ảnh so sánh trong các câu thơ, câu văn dưới đây: a) Cánh diều no gió Tiếng nó chơi vơi Diều là hạt cau Phơi trên nong trời. b) Hoa lựu như lửa lập lòe c) Khi cá vàng khẽ uốn lưng thì đuôi xòe rộng như một dải lụa màu da cam còn khoan thai uốn lượn mãi. d) Giàn hoa mướp vàng như đàn bướm đẹp. Đáp án: a) Diều là hạt cau b) Hoa lựu như lửa lập lòe c) Đuôi(cá vàng) xòe rộng như một dải lụa màu da cam d) Hoa mướp vàng như đàn bướm đẹp Bài 2: Tìm các từ chỉ sự so sánh trong mỗi câu sau: a) Hồn tôi là một vườn hoa lá 19
  9. Bài 5: Tìm những hình ảnh so sánh thích hợp điền vào chỗ trống để câu văn có hình ảnh so sánh phù hợp nhất: a) lơ lửng giữa trời như cánh diều đang bay. b) cuồn cuộn chảy như những con ngựa tung bờm phi nước đại. c) Mùa xuân, hoa xoan nở từng chùm tím biếc trông như d) Trăng rằm trung thu tròn như Đây là bài tập không phải là khó, nhưng để làm tốt bài bập này thì giáo viên phải hướng dẫn học sinh quan sát, suy nghĩ, liên tưởng để tìm ra những sự vật có nét tương đồng với sự vật đã cho, từ đó tạo câu văn có hình ảnh so sánh. Ví dụ: Trong câu a, con thấy có những sự vật nào giống như một cánh diều? (mặt trăng lưỡi liềm, hạt cau, dấu á ) ? Trong các sự vật trên, có sự vật nào ta thấy lơ lửng được trên không? (mặt trăng lưỡi liềm) Từ đó học sinh chọn được hình ảnh phù hợp điền vào chỗ trống để tạo thành câu văn đúng và hay: Mảnh trăng lưỡi liềm lơ lửng giữa trời như cánh diều đang bay. Tương tự với các trường hợp còn lại, học sinh sẽ viết được những câu văn có hình ảnh so sánh như: b) Dòng sông mùa lũ cuồn cuộn như những con ngựa tung bờm phi nước đại. c) Mùa xuân, hoa xoan nở từng chùm tím biếc trông như những đám mây bồng bềnh trên ngọn cây. d) Trăng rằm trung thu tròn như cái đĩa./ như quả bóng bay Bài 6: Em hãy lựa chọn những từ ngữ trong ngoặc thay thế các từ in nghiêng và thêm từ “như” để câu văn có hình ảnh so sánh: a) Buổi sáng, những cánh buồm nâu trên biển đẹp quá. b) Nắng mai hồng rất đẹp trải dài trên con đường làng quê em. c) Đôi cánh gà mẹ xòe ra chắc chắn che chở cho các chú gà con. (cánh bướm dập dờn, dải lụa đào, chiếc nơ, hai mái nhà, chiếc ô) Bài tập này với mục đích bước đầu cho học sinh làm quen với việc viết câu văn có hình ảnh so sánh để diễn đạt sự vật sao cho sinh động. Bằng hiểu biết và óc liên tưởng của mình các em sẽ lựa chọn được những từ ngữ thích hợp để thay thế. Đáp án: a. Buổi sáng, những cánh buồm nâu trên biển như những cánh bướm dập dờn b. Nắng mai hồng như dải lụa đào trải dài trên con đường làng quê em. c. Đôi cánh gà mẹ xòe ra như hai mái nhà che chở cho các chú gà con. 2. Dạng bài tập cảm nhận và nêu tác dụng của so sánh Bài 1: Gạch dƣới những hình ảnh so sánh trong các câu văn dƣới đây. Trong các hình ảnh đó, em thích hình ảnh nào? Vì sao? 21
  10. Ví dụ: a) Những bông hoa bàng màu trắng, nhỏ li ti như những hạt cườm trải khắp trên cành cây. b) Bà của em đã già, tóc của bà bạc trắng như mây. c) Bầy chim non đang hót trong nắng mai như một bản hòa tấu. Sau khi học sinh đã thành thạo dạng bài tập này tôi lại ra một số bài tập ở mức độ khó hơn. Bài 2: Hãy dùng biện pháp so sánh để diễn đạt về mỗi sự vật sau: ông mặt trời, cánh đồng lúa, dòng sông, hoa hồng . Loại bài tập này khó hơn, đòi hỏi học sinh phải có một trí tưởng tượng thật phong phú kết hợp với khả năng diễn đạt thật thành thạo thì mới có thể viết được những câu văn có hình ảnh so sánh hay. Tôi cũng có biện pháp hướng dẫn cụ thể các em học sinh yếu bằng cánh sau khi học sinh đã trình bày hết ý kiến mà chưa có được câu văn hay thì tôi sẽ đưa một vài câu văn làm mẫu để các em tích lũy làm tư liệu cho mình. Ví dụ: - Ông mặt trời đỏ rực như một quả cầu lửa đang từ từ nhô lên ở phía đằng đông. - Cánh đồng lúa chín vàng trải rộng như một tấm thảm khổng lồ. - Dòng sông uốn quanh như một dải lụa chia đôi hai làng. - Những đóa hồng nhung dịu dàng và kiêu sa như những nàng tiên. Bài 3 (Dành cho học sinh xuất sắc) Cô giáo em Hiền như cô Tấm Giọng cô đầm ấm Như lời mẹ ru. Từ ý thơ trên, em hãy viết đoạn văn ngắn tả cô giáo em. Đây là dạng bài tập khó nên tôi chỉ yêu cầu đối với học sinh giỏi để các em bồi dưỡng thêm về kiến thức cũng như cách cảm thụ văn học và sẽ phục vụ tốt cho những bài văn miêu tả của lớp 4, 5. Với cách làm như vậy thì trí tưởng tượng của học sinh sẽ ngày một phong phú, khả năng diễn đạt câu văn sẽ tốt hơn. Trong các bài tập vận dụng biện pháp so sánh để câu văn trở nên hay hơn, bài viết sinh động hơn sẽ không còn là một việc khó đối với các em. Biện pháp 5: Giúp học sinh nhận biết biện pháp so sánh thông qua các câu đố dân gian Kho tàng câu đố dân gian thật phong phú và đa dạng. Nó phản ánh những thuộc tính, đặc điểm của sự vật, hiện tượng. Nó vừa có chức năng bồi dưỡng tri thức, vừa có chức năng giải trí cho con người. Trong số đó, cha ông ta cũng đã biết sử dụng biện pháp so sánh để làm rõ sự vật cần phải tìm nhưng không quá lộ. Dựa vào điều đó tôi đã sưu tầm và tích luỹ một số câu đố có sử dụng biện pháp so sánh. 23
  11. CHƯƠNG III: KẾT QUẢ Sau một thời gian nghiên cứu và thực nghiệm, để nắm được kết quả học tập của học sinh lớp tôi về biện pháp tu từ so sánh, tôi đã tiến hành khảo sát học sinh trong lớp 3G đợt 2 với phiếu bài tập sau: PHIẾU BÀI TẬP Bài 1: Đọc các câu thơ, câu văn sau rồi làm bài tập bằng cách điền vào bảng: a. Những ngón tay thon thon như những búp măng. b. Cánh đồng trông xa như một tấm thảm màu vàng. c. Những chú gà con mới nở trông như những hòn tơ nhỏ. Câu Sự vật được so sánh Từ so sánh Sự vật so sánh a) b) c) Bài 2 : Khoanh tròn vào chữ trước câu có hình ảnh so sánh: a. Nắng là ánh sáng của mặt trời. b. Nắng là từng dòng lửa xối xuống mặt đất. c. Nắng tạo ra từng dòng lửa xối xuống mặt đất. Bài 3: Thêm các từ ngữ vào chỗ chấm để tạo thành câu văn có hình ảnh so sánh: a) Những bông hoa b) Đôi mắt của em bé c) Những đám mây trên trời d) Tiếng mèo kêu trong đêm . Bài 4: Em hãy một đoạn văn khoảng 3 - 5 câu văn tả đặc điểm của con vật nuôi mà em yêu thích nhất, trong đó có sử dụng biện pháp so sánh. Sau khi nghiên cứu và lựa chọn một phiếu bài tập nhằm kiểm tra tổng quát kiến thức cơ bản về biện pháp so sánh, tôi thu được kết quả như sau: 25