Sáng kiến kinh nghiệm Rèn kĩ năng đọc cho học sinh Lớp 1 qua phân môn Tập đọc
1. Lí do chọn đề tài
Như chúng ta đã biết trong nhà trường Tiểu học ở Việt Nam đã coi Tiếng Việt là một môn học trung tâm, làm nền móng các môn học khác. Môn Tiếng Việt ở trường Tiểu học có nhiệm vụ vô vùng quan trọng, đó là hình thành 4 kỹ năng: Nghe - nói - đọc - viết cho học sinh. Tập đọc là một phân môn của chương trình Tiếng Việt bậc Tiểu học. Đây là phân môn có vị trí đặc biệt trong chương trình vì nó đảm nhiệm việc hình thành và phát triển kỹ năng đọc, một kỹ năng quan trọng hàng đầu của học sinh ở bậc Tiểu học. Kỹ năng đọc có nhiều mức độ: đọc đúng, đọc nhanh (lưu loát, trôi chảy), đọc có ý thức (hiểu được nội dung những điều mình đọc hay còn gọi là đọc hiểu) và đọc diễn cảm. Khi học sinh đọc tốt, viết tốt thì các em mới có thể tiếp thu các môn học khác một cách chắc chắn. Từ đó học sinh mới hoàn thành được năng lực giao tiếp của mình. Những kỹ năng này không phải tự nhiên mà có. Nhà trường phải từng bước hình thành và trường Tiểu học nhận nhiệm vụ đặt viên gạch đầu tiên. Nên việc dạy học phải có định hướng, có kế hoạch từ lớp 1 đến lớp 5. Ở lớp 1 để củng cố chắc chắn kỹ năng đọc tiến tới đọc thông, đọc hiểu (ở mức đơn giản) thì phân môn Tập đọc trong phần Luyện tập tổng hợp chiếm vai trò hết sức quan trọng.
Đặc biệt đối với học sinh lớp 1 là lứa tuổi đang chuyển từ hoạt động chủ đạo là vui chơi sang học tập. Đây là một việc rất khó khăn đối với trẻ, một trong những khó khăn nhất là việc học chữ. Trong chương trình dạy Tiếng Vệt lớp 1 đó là dạy theo một hệ thống âm - vần - thanh, sau đó ghép chúng lại thành tiếng, từ và tiến tới đọc thông viết thạo.
Dạy cho học sinh lớp 1 đọc thông là dạy cho học sinh biết đọc trơn liên từ, cụm từ, câu, biết ngắt nghỉ hơi đúng chỗ. Hiểu theo nghĩa các từ thông dụng, biết diễn đạt ý trong câu. Như vậy khi dạy Tập đọc cho học sinh lớp 1 thì việc rèn đọc đúng cho các em là cơ bản nó vừa có ý nghĩa rèn luyện về ngôn ngữ vừa có ý nghĩa bồi dưỡng về văn học.
Việc dạy đọc cho các em thật vô cùng quan trọng, bởi các em có đọc tốt được ở lớp 1 thì khi học các lớp tiếp theo, các em mới nắm bắt được những yêu cầu cao hơn của môn Tiếng Việt. Đọc đúng học sinh sẽ có cơ sở hiểu đúng, viết đúng. Đọc đúng còn giúp cho người khác hiểu bài các em đọc. Đọc đúng còn giúp các em trong học tập môn khác, hiện nay cũng như trong sinh hoạt và công tác sau này khi các em lớn lên.Vì vậy kĩ năng đọc được xem là một tiêu chí đánh giá chất lượng học tập của học sinh Tiểu học nói chung và học sinh lớp 1 nói riêng. Nhưng trước hết là vấn đề kĩ năng, không phải cứ biết chữ là học sinh nào cũng có thể đọc đúng. Muốn đọc đúng thì các em phải luyện đọc theo đúng qui tắc hướng dẫn. Đó là vấn đề luôn đặt ra cho người giáo viên.
Xuất phát từ vấn đề trên là giáo viên dạy lớp 1 với sự nỗ lực phấn đấu của bản thân trong giảng dạy và việc học tập tìm hiểu kinh nghiệm của đồng nghiệp trong tổ đã nhiều năm dạy lớp 1. Tôi mạnh dạn trình bày áp dụng sáng kiến “Rèn kĩ năng đọc cho học sinh lớp 1 qua phân môn Tập đọc ”.
File đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_ren_ki_nang_doc_cho_hoc_sinh_lop_1_qua.pdf
Nội dung text: Sáng kiến kinh nghiệm Rèn kĩ năng đọc cho học sinh Lớp 1 qua phân môn Tập đọc
- đọc, ở phần này học sinh được rèn luyện về cách phát âm, cách nghỉ hơi đúng chỗ, cách đọc đúng ngữ điệu. Để giờ học đạt kết quả cao hơn thì phải đảm bảo nguyên tắc phát triển tư duy, phát huy tính tích cực, năng lực của học sinh. Do vậy phần luyện đọc giáo viên cần gợi mở, hướng dẫn học sinh tự phát hiện những chỗ cần ngắt giọng, hạ giọng những câu thơ, những câu văn trong bài từ đó tìm ra cách đọc hay hơn. Nghiên cứu để nâng cao nhận thức, phải nắm rõ thuận lợi, khó khăn trong việc dạy và cách thức tiến hành nhằm nâng cao việc học, tiếp thu nội dung bài ở học sinh. 1.3. Tìm hiểu về phân môn Tập đọc ở lớp 1 - Cấu trúc chung: Chương trình Tiếng Việt lớp 1- phân môn Tập đọc thời lượng chiếm 3 / 5 so với các phân môn còn lại kéo dài từ tuần 25 đến hết tuần 35 (có 10 tuần dạy Tập đọc, mỗi tuần có 3 bài, mỗi bài dạy trong 2 tiết: “6 / 10 tiết / 1 tuần” ) . - Nội dung: Các bài tập đọc xoay quanh 3 chủ điểm: Nhà trường; Gia đình; Thiên nhiên đất nước. - Bài tập đọc lớp 1 gồm các phần: + Văn bản đọc + Những tiếng, từ khó cần lưu ý + Các câu hỏi (bài tập) để ôn luyện âm, vần + Luyện nói: nói về một vấn đề hoặc nhìn tranh để diễn đạt. Như vậy nội dung các bài tập đọc ở lớp 1 cung cấp lượng kiến thức về cuộc sống xung quanh cho học sinh. Rèn kĩ năng đọc thành tiếng, đọc thầm. Luyện kĩ năng ghi nhớ nội dung văn bản chuyển từ học âm - vần sang Tập đọc, học sinh được luyện mức độ cao hơn trước rất nhiều như luyện đọc trơn lưu loát bài thơ hay bài văn. Thi đọc cá nhân, nhóm, tổ. Học thuộc lòng bài thơ. Biết tìm từ, nói câu có chứa vần ôn tập. Tìm hiểu nội dung bài. Luyện nói thành câu về một vấn đề hay về tranh. 1.4. Bản chất của một tiết dạy Tập đọc Khi dạy một tiết Tập đọc phải đạt được yêu cầu, mục tiêu của bài. Tiết học phải được chuẩn bị chu đáo và phù hợp với học sinh. Phải tổ chức các phương pháp, hình thức dạy học sáng tạo, sinh động, nhẹ nhàng, hiệu quả sao cho học sinh trong lớp đều nhận biết, nắm được kiến thức, tạo hứng thú học cho học sinh, lấy học sinh làm trung tâm. Luôn quan tâm khích lệ, động viên và dạy phân hóa đối tượng học sinh để tránh làm cho học sinh không hoàn thành nhiệm vụ khai thác nội dung về các bài tập đọc. Đối với học sinh lớp 1, các em bắt đầu chuyển từ giai đoạn Học vần sang Tập đọc vì vậy giờ Tập đọc ở lớp 1 vận dụng cả phương pháp Học vần, cả phương pháp Tập đọc. Yêu cầu của giờ Tập đọc lớp 1 là củng cố hệ thống âm vần đã học (nhất là các vần khó), đọc đúng và đọc trơn tiếng, đọc liền từ, đọc 6
- CHƢƠNG II: THỰC TRẠNG DẠY HỌC 2. Thực trạng của vấn đề nghiên cứu 2.1. Thực trạng chung của vấn đề nghiên cứu 2.1.1. Khảo sát nội dung chương trình sách giáo khoa - Tiếng Việt 1 - Tập 2 a. Cách sắp xếp các bài tập đọc Phần Luyện tập tổng hợp sách giáo khoa - Tiếng Việt 1 (Tập 2) có 42 bài tập đọc (Giảm tải 3 bài: Mẹ và cô, Quyển vở của em, Con quạ thông minh) từ tuần 25 đến tuần 35 được sắp xếp theo các tiêu chí: + Xếp theo chủ điểm Mỗi tuần có 3 bài tập đọc - các bài này cùng có một chủ điểm. Có 3 chủ điểm: Nhà trường - Gia đình - Thiên nhiên đất nước. Mỗi chủ điểm được lặp đi lặp lại 4 lần. + Xếp từ ngắn đến dài Độ dài phát triển tăng dần dao động từ 50 - 100 tiếng (văn xuôi) từ 4 - 20 dòng (thơ). Ví dụ: Tuần 25: Bài “Tặng cháu” có 4 dòng thơ Tuần 35: Bài “Ò ó o” có 30 dòng thơ + XÕp tõ ®¬n gi¶n ®Õn phøc t¹p C¸c bµi TËp ®äc ë đầu tuÇn cã néi dung Ýt h¬n, ®¬n gi¶n h¬n c¸c bµi ë tuÇn cuèi. VÝ dô: TuÇn 35: Bài: Anh hùng biển cả - nội dung nhiều hơn các bài ở tuần đầu b. Hệ thống các vần khó ít dùng Tuần Tên các bài tập đọc Ôn vần cũ Học vần mới Ghi chú 28 Đầm sen en oen Mời vào ang oong Chú công oc ooc 30 Hai chị em et oet 31 Lũy tre iêng yêng Sau cơn mưa ây uây 32 Nói rối hại thân it uyt Các vần trong hệ thống trên có vần có âm đệm o, eo. Các âm vần này theo nguyên tắc đối lập giữa bán âm và không có bán âm.Ví dụ: en - oen; ây - uây hoặc giữa cặp âm cuối, ví dụ: oăt - oa; oe - oeo. Nắm chắc nguyên tắc này giáo viên giúp học sinh nắm chắc vần một cách khoa học. 2.1.2. Yêu cầu về kỹ năng đọc a. Đọc thành tiếng * Luyện đọc đúng 8
- *Luyện đọc nhanh - Đọc nhanh (còn gọi là đọc lưu loát, trôi chảy) là nói đến phẩm chất đọc về mặt tốc độ, là việc đọc không ê a, ngắt ngứ. Vấn đề tốc độ đọc chỉ đặt ra sau khi đã đọc đúng. Mức độ thấp nhất của đọc nhanh là đọc trơn. Vì vậy đọc nhanh không phải đọc liến thoắng. Tốc độ chấp nhận được của đọc nhanh khi đọc thành tiếng trùng với tốc độ của lời nói. Khi đọc thầm thì tốc độ đọc sẽ nhanh hơn nhiều. - Giáo viên hướng dẫn cho học sinh làm chủ tốc độ bằng cách đọc mẫu để học sinh đọc theo tốc độ đã định. Đơn vị để đọc nhanh là cụm từ, câu, đoạn, bài. Giáo viên điều chỉnh tốc độ đọc bằng cách giữ nhịp đọc. Ngoài ra, còn có biện pháp đọc nối tiếp trên lớp, đọc thầm có sự kiểm tra của thầy, của bạn để điều chỉnh tốc độ. Giáo viên đo tốc độ đọc bằng cách chọn sẵn bài có số tiếng cho trước và dự tính sẽ đọc trong bao nhiêu phút. Định tốc như thế nào còn phụ thuộc vào độ khó của bài đọc. (Cuối lớp 1 yêu cầu kĩ năng đọc cao hơn). b. Đọc hiểu Hiểu nghĩa các từ thông thường, hiểu được ý diễn đạt trong câu. Cảm thụ bài đọc với học sinh lớp 1 không yêu cầu khai thác sâu, kĩ bài văn bài thơ mà học sinh chỉ cần nắm được ý để trả lời các câu hỏi. c. Học thuộc lòng một số bài văn vần 2.1.3. Nhiệm vụ của mỗi tiết dạy Tập đọc Chương trình Tập đọc 1 quy định 1 tiết Tập đọc dạy 2 tiết. + Tiết 1: Do học sinh vừa mới học vần âm - vần xong còn khá nhiều đọc chậm, nhiều học sinh còn phải đánh vần song rồi mới đọc được thành tiếng. Vì vậy thời gian dành chủ yếu cho cho việc luyện đọc. Trong tiết này giáo viên giúp học sinh đọc trơn tiếng, liền từ ngữ (còn với học sinh đọc tốt, lưu loát rõ ràng giáo viên giúp học sinh làm quen đọc thầm và đọc diễn cảm). Ngoài ra trong 1 tiết giáo viên giúp học sinh ôn luyện các vần khó, ít dùng để học và giới thiệu một số vần mới chưa học ở tiết 1. Giáo viên giúp học sinh thực hiện các công việc sau: - Luyện đọc các từ ngữ khó trong bài - Luyện đọc câu khó - Luyện đọc đoạn bài, ôn luyện vần khó - học vần mới - Ôn về cấu tạo vần, hiểu vần đã học - Học một số vần mới ít dùng + Tiết 2: Tiết này giáo viên chủ yếu giúp học sinh trên cơ sở tiết 1. Luyện đọc, tìm hiểu bài (đọc trơn lưu loát văn bản - tìm hiểu nội dung bài). Cuối tiết 2 giáo viên dành 7 - 10 phút để luyện nói theo chủ điểm. 10
- d. Về phía phụ huynh Một số gia đình chưa quan tâm đến việc học con em mình, phó mặc khoán trắng cho nhà trường. 2.2.3. Khảo sát kĩ năng đọc của học sinh lớp 1 Sau khi tìm hiểu thực trạng của vấn đề nghiên cứu tôi đã lập ra kế hoạch dạy thực nghiệm, để đạt kết quả tốt tôi tiến hành khảo sát kĩ năng đọc của học sinh trước khi dạy thực nghiệm: Tôi đã dự giờ của đồng chí Đỗ Thị Cúc chủ nhiệm lớp 1A2 cùng khối lớp với tôi mục đích tìm hiểu phương pháp giảng dạy, các bước lên lớp, phong trào luyện đọc của học sinh. Sau khi dự giờ lớp 1A2 bài:“Hoa Ngọc Lan” - Tiếng Việt 1 - Tập 2. Tôi đã xây dựng phiếu trắc nghiệm về những lỗi học sinh hay mắc như sau: Phiếu điều tra học tập Họ và tên: Lớp : 1A2 1. Câu hỏi: a. Em có thích học Tập đọc không? b. Đọc đúng giúp em những gì? c. Em thích đoc bài nào (văn xuôi, thơ )? Vì sao? 2. Bài tập : 2.1. Em hãy đọc các từ sau: thứ hai, cô giáo, dạy em, điều hay, em rất yêu mái trường 2.2. Em hãy đọc đoạn văn sau: Bố cho Giang một quyển vở mới. Giữa trang bìa là một chiếc nhãn vở trang trí rất đẹp. Giang lấy bút nắn nót viết tên trường, tên lớp, họ và tên của em vào nhãn vở. Sau khi học sinh đọc xong phiếu điều tra tôi đã tổng hợp kết quả cụ thể trước thực nghiệm như sau: Luyện phát âm; ngắt, Số học sinh đọc lƣu loát, nghỉ hơi chƣa lƣu loát Sĩ Đúng Chưa đúng Lưu loát Chưa lưu loát số Lớp SL % SL % SL % SL % 1A2 55 46 83,6 9 16,4 35 66,3 20 33,7 Từ những số liệu về tình hình học tập của học sinh mà tôi đã kiểm tra được và tìm hiểu rõ nguyên nhân nào các em lại đọc còn chậm chưa lưu loát, chưa ngắt, nghỉ hơi đúng so với yêu cầu chuẩn. Xuất phát từ thực tiễn trên, tôi đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả về khả năng đọc cho học sinh lớp 1 như sau. 12
- làm mục tiêu phấn đấu, còn những đọc chậm nếu dạy chung theo chuẩn của chương trình đề ra thì các em không thể theo kịp, vì thế trước hết sắp xếp chỗ ngồi cho các em phù hợp và có tác dụng thúc đẩy. Ví dụ: Cho các em ngồi gần các bạn học tốt để các em được sự giúp đỡ từ bạn, được học tập từ bạn như các em tập đọc theo bạn, nhắc lại câu của bạn nói, giúp đỡ từ được các bạn nhắc nhở luôn với hình thức này là điều kiện rất tốt cho các em hoạt động nhóm đôi, tránh cho các em cùng học chậm ngồi với nhau và ngồi cuối cùng của lớp, cần tạo điều kiện cho các em đọc tốt để các em biết phát huy những ưu điểm của mình. b. Phương pháp sử dụng đồ dùng dạy học như tranh, ảnh, vật thật cho học sinh Lứa tuổi học sinh tiểu học nhất là học sinh lớp Một khả năng tư duy trừu tượng kém, phần lớn các em phải dựa trên những mô hình vật thật, tranh ảnh, do vậy trong các giờ học việc yêu cầu giáo viên sử dụng đồ dùng dạy học là không thể thiếu kể cả đồ dùng giáo viên tự làm, đồ dùng dạy học là phương tiện chuyển tải thông tin và là nội dung truyền thụ kiến thức giáo dục tư cách, rèn luyện kỹ năng thực hành cho học sinh, nó có tác dụng điều khiển hoạt động của học sinh từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, kích thích hứng thú cho học sinh học tập. Có nhà giáo dục trẻ cho rằng trẻ không sợ học mà chỉ sợ những tiết học đơn điệu nhàm chán vì thế đồ dùng dạy học có tác dụng rất lớn trong quá trình dạy môn Tiếng Việt đọc cho học sinh, nhất là các em học sinh học chậm. Dùng tranh, ảnh có vai trò rất lớn trong phần luyện nói ở các tiết tập đọc môn Tiếng Việt lớp 1 - học kì II. Ví dụ: Bài Chuyện ở lớp - Trang 100 Sách giáo khoa Tiếng Việt 1 - Tập II. Phần luyện nói: Tìm tiếng ngoài bài: có vần uôt. Giáo viên treo tranh một người đang tuốt lúa. Giáo viên hỏi nội dung bức tranh, sau đó cho các em nói câu có vần uôt, động viên các em đọc chậm nói trước, nhìn vào tranh tự các em có thể nói được như: Mẹ (cô, chị, dì) đang tuốt lúa hoặc là máy tuốt lúa. Dùng tranh, ảnh trong các phần này tôi nghĩ rằng có tác dụng rất lớn đối với các em học chậm, các em vừa nói được câu có vần cần tìm và còn hiểu được nghĩa của câu đó. Tuy nhiên các em học sinh đọc khá, đọc tốt nói các câu khác cũng có vần uôt. Ví dụ: “Mèo đen bắt được một con chuột. Hay: Bố em là người sáng suốt nhất nhà.” mà không cần dựa vào tranh. Qua đó tôi nhận thấy rằng rõ ràng trong cùng một giờ học giáo viên biết vận dụng khéo léo tranh, ảnh thì vừa phát huy được tính sáng tạo chủ động cho học sinh học tốt lại vừa tạo sự hứng thú cố gắng vươn lên cho học sinh học chậm. c. Phương pháp phối kết hợp với phụ huynh để giúp học sinh đọc tốt Học sinh sống ở ba môi trường: gia đình, nhà trường, xã hội. Việc giúp học sinh đọc tốt không chỉ diễn ra ở nhà trường mà nó diễn ra ở cả gia đình và xã hội. Chính vì vậy ông bà, bố mẹ khi tiếp xúc với trẻ phải lắng nghe để sửa cho con mình và cần chú ý nói chuẩn để con học tập. Trong các cuộc họp phụ huynh 14
- trình độ của học sinh, phải hướng dẫn cho các em đọc đúng, phát âm chuẩn. Nếu học sinh đọc chưa tốt, đọc còn ngọng, sai và ấp úng thì giáo viên phải dừng lại ở bước 1 là luyện đọc đúng. Nếu học sinh đọc đúng, đọc tốt rồi thì giáo viên dành cho luyện đọc nâng cao (bước 3). Động viên các em và giao nhiệm vụ cho cả lớp cùng giúp bạn bằng cách không trêu ghẹo, đùa mà tạo cơ hội cho bạn sửa chữa. Qua tìm hiểu tôi thấy đại đa số các em đọc ngọng là do các nguyên nhân sau: + Do môi trường sống (nhiều hơn) + Do bộ máy phát âm (ít hơn) + Do phương ngữ Chính vì vậy để sửa cho các em đọc đúng người giáo viên phải kiên trì liên tục và có hệ thống. Thông thường các em rất ngại đọc vì sợ các bạn chê cười, chế nhạo cho nên người giáo viên phải giải toả tâm lí cho học sinh bằng lời lẽ của mình. Đồng thời phải giải thích cho học sinh cùng lớp để các em cùng giúp bạn sửa chữa. c. Cách sửa đọc ngọng cho học sinh Trước hết giáo viên phải nắm chắc được nghĩa của các từ có phụ âm hay đọc ngọng như l - n để định hình được lời nói và chữ viết. Giáo viên cần xem lại phương thức phát âm phụ âm đầu l - n và tự mỗi giáo viên phải luyện bằng thời gian dài và phải kiên trì. Khi học sinh đọc lẫn các tiếng có phụ âm đầu là l, giáo viên dừng lại sửa cho các em bằng cách: hướng dẫn các em đọc đầu lưỡi hơi cong, luồng hơi đi ra bị cản. Ví dụ: những tiếng có phụ âm đầu n đọc đầu lưỡi thẳng, môi trề, bụng hơi hóp lại. Những tiếng có âm quặt lưỡi như s - x; r - d - gi; tr - ch thì hướng dẫn các em nói tự nhiên cho hay, (không cố gắng đọc nhấn). Nhưng trong Tiếng Việt có phụ âm đầu là r (là phụ âm quặt lưỡi) thì chúng ta đọc không rung. Ví dụ: Như từ: ra vào, rang lạc, rực rỡ, rung rinh. Giáo viên đọc rung những tiếng là tiếng nước ngoài, ví dụ: Ra đi ô, Đối với học sinh lớp 1 dù ở bất kì dạng bài nào văn xuôi hay thơ thì trước khi luyện đọc đúng toàn bài bao giờ học sinh cũng được ôn luyện âm vần. Trong phần này các em ôn luyện vần trên cơ sở: Luyện cho học sinh đọc đúng một số từ khó, hay nhầm lẫn khi đọc có trong bài: Ví dụ: Bài “Hoa ngọc lan” sách giáo khoa chỉ yêu cầu luyện đọc các từ sau “hoa lan, lấp ló, lá dày”. Khi dạy dựa vào tình hình đọc của lớp ngoài những từ trên tôi đã chọn một số từ ngữ cần luyện đọc hoặc cho các em tự phát hiện tìm them một số từ ngữ khác cần luyện đọc đúng đó là các từ ngữ:“xanh thẫm, nụ hoa, ngan ngát, kẽ lá, tỏa khắp vườn, khắp nhà ”. Sở dĩ chọn thêm những từ ngữ này bởi vì thực tế lớp tôi dạy còn một số ít em đọc chưa tốt, các em hay nhầm lẫn vần, phụ âm đầu và dấu thanh. 16
- Sau khi học sinh điền xong giáo viên phải yêu cầu và kiểm tra các em đọc. Nếu các em phát âm chưa đúng giáo viên phải kịp thời uốn nắn ngay. Phần luyện đọc từ nếu giáo viên làm tốt, hướng dẫn học sinh kỹ sẽ giúp các em đọc tròn bài đọc tốt hơn. d. Luyện cho học sinh có ý thức về ngữ điệu khi đọc: * Đọc đúng: dạng thơ Thơ là tiếng nói của tình cảm, là sự phản ánh con người và thời đại một cách cao đẹp, thơ rất giàu chất trữ tình. Vì vậy khi đọc thơ cần thể hiện được tình cảm của tác giả gửi gắm trong từ, từng dòng thơ, nhịp thơ để truyền cảm xúc đến người nghe. Vì vậy đọc thơ phải đọc đúng dòng thơ, vần thơ, thể thơ để thể hiện sắc thái, tình cảm, ngắt nhịp ra sao. Do vậy khi dạy những bài đọc thơ ở giai đoạn đầu tôi thường đưa lên bảng các câu thơ cần chú ý ngắt giọng rồi hướng hẫn: Ví dụ: Bài “Tặng cháu” Vở này / ta tặng cháu yêu ta Tỏ chút lòng yêu cháu / gọi là Mong cháu / ra công mà học tập Mai sau / cháu giúp nước non nhà Học sinh sẽ được luyện đọc từng câu rồi đọc nối tiếp nhau cho đến hết bài. Giáo viên có thể cho các em dùng kí hiệu đánh dấu vào sách để khi đọc không bị quên. Đến giai đoạn sau (khoảng từ giữa học kì II trở đi) tôi đã để học sinh nhìn vào sách và nêu cách ngắt giọng của mình ở từng câu thơ (vì những bài thơ của lớp 1 thường là ngắn nên công việc này cũng không chiếm quá nhiều thời gian trong tiết dạy). Nếu học sinh nói đúng giáo viên công nhận ngay và cho các em đánh dấu luôn vào sách. Nếu học sinh nói chưa đúng giáo viên sửa lại cho học sinh những câu học sinh ngắt nhịp chưa đúng và nêu cho các em thấy tại sao ngắt nhịp như vậy là chưa đúng. Ví dụ: “Lá thu / kêu xào xạc Con nai / vàng ngơ ngác Đạp trên / lá vàng khô” Câu “Con nai vàng ngơ ngác” ngắt nhịp như trên là chưa đúng vì “con nai vàng” là một cụm từ liền nhau, nếu ngắt giọng ở sau chữ “nai” thì cụm từ đó sẽ bị tách ra và nghĩa của nó sẽ không rõ ràng. Tôi đã sửa cách đọc bài thơ trên như sau: “Lá thu kêu / xào xạc Con nai vàng / ngơ ngác Đạp trên lá / vàng khô” Ví dụ: Bài “Kể cho bé nghe” Khi đọc học sinh thường ngắt mỗi dòng thơ một lần là do thói quen nhưng tôi đã sửa lại và hướng dẫn cho các em cách đọc vắt dòng: cuối dòng 1 đọc vắt 18
- “Suốt mùa sen, / sáng sáng / lại có những người ngồi trên thuyền nan / rẽ lá, / hái hoa. //” Tôi giải thích ta ngắt ở sau từ “sáng sáng” để nhấn mạnh thêm về thời gian mà con người đi thăm đầm sen. Đối với những bài có lời thoại, giáo viên phải hướng dẫn kỹ học sinh cách lên giọng cuối câu hỏi và xuống giọng cuối câu kể (câu trả lời). Ví dụ: Bài “Vì bây giờ mẹ mới về” Tôi đã hướng dẫn học sinh đọc từng câu thoại của mẹ và của con. Những câu hỏi của mẹ: Con làm sao thế? (đọc lên giọng cuối câu). Những câu trả lời của cậu bé. Con bị đứt tay. Lúc nãy ạ! Vì bây giờ mẹ mới về (đọc xuống giọng ở cuối câu). Cũng như thơ, sau khi sửa xong lỗi ngắt giọng cho học sinh, giáo viên phải gọi nhiều em đọc, các học sinh khác nghe và nhận xét bạn đọc.Việc luyện đọc cho học sinh đọc đúng từ, câu sẽ giúp cho việc đọc đoạn, bài được trôi chảy, lưu loát hơn và học sinh nắm chắc được cách đọc đúng văn bản được học mà không phải tình trạng học vẹt. Để tiết học nhẹ nhàng, không nhàm chán mà lại nhiều em được luyện đọc thì giáo viên phải tổ chức đọc theo nhiều hình thức khác nhau . d. Thay đổi hình thức đọc Trong khi tiến hành luyện đọc cho các em ở mỗi giờ học tôi thường tổ chức cho các em đọc một đoạn thơ, đoạn văn theo nhiều hình thức. Bằng cách này tôi yêu cầu tất cả các học sinh trong lớp phải chú ý bạn khác đọc. Những hình thức này còn giúp giáo viên kiểm soát được khả năng đọc của toàn thể học sinh trong lớp. Các hình thức như: + Đọc cá nhân: Hình thức này giáo viên sử dụng xuyên suốt trong mỗi tiết học. Từ đọc tiếng, từ khó-> đọc câu -> đọc đoạn -> bài. Giáo viên gọi học sinh nhận xét bạn -> giáo viên sửa phát âm, tuyên dương. 20
- + Đọc đối đáp: Hình thức này chỉ sử dụng cho các bài có nội dung dễ đọc, dễ nhớ. Ví dụ: Bài “Kể cho bé nghe” (Tiếng Việt 1- Tập 2 – Trang 112) HS1: Hay nói ầm ĩ HS2: Là con vịt bầu HS1: Hay hỏi đâu đâu HS2: Là con chó vện. + Luyện đọc củng cố và nâng cao Để giúp học sinh đọc bài một cách chắc chắn, giáo viên cần dành thời gian để luyện đọc củng cố và nâng cao. Trong phần này giáo viên cho học sinh luyện đọc cá nhân - giáo viên cần chú ý tới các em đọc yếu để em đó được tham gia đọc - giáo viên cần động viên khích lệ kịp thời. Trong quá trình học sinh đọc giáo viên quan tâm theo dõi, uốn nắn, sửa sai cho các em. Đối với những bài đọc có lời đối thoại nên cho các em đọc theo lối phân vai. Mục đích của đọc phân vai giúp cho học sinh tập trung, chú ý cao để đọc đúng vai của mình. Hình thức này dùng cho bài đọc có nội dung lời thoại khi lựa chọn hình thức này giáo viên phải chọn đối tượng học sinh phù hợp với giọng đối thoại - phù hợp độ dài, ngắn của văn bản. Giáo viên nên tổ chức vào cuối tiết 2. Trong khi hướng dẫn học sinh luyện đọc tôi kết hợp hướng dẫn các em biết sắc thái tình cảm nhau của một bài văn khi phân vai, mỗi nhân vật sắm vai phải thể hiện được giọng đọc của từng vai theo nội dung bài để đọc to giọng hay đọc nhẹ nhàng, vừa phải, đọc chậm theo đúng nhịp điệu thích hợp, tạo được âm hưởng của đoạn văn, bài văn, bài thơ. Ví dụ: Khi dạy bài “Mưu chú sẻ ” tôi hướng dẫn học sinh thể hiện cách phân vai như sau: Giọng Người dẫn chuyện: Giọng kể hồi hộp, căng thẳng 22
- mái, giảm bớt mệt mỏi để các hình thức học tập tiếp theo tốt hơn, đạt hiệu quả cao hơn. Ví dụ: khi dạy bài tập đọc “Vì bây giờ mẹ mới về ”- sách giáo khoa -Tiếng Việt 1- Tập 2 - trang 87 trong giờ nghỉ giữa giờ tôi tổ chức cho học sinh múa hát tập thể bài hát múa “Múa cho mẹ xem”. Dưới lớp cùng hát, vỗ tay theo các bạn múa trên bảng. Hình thức giải lao này học sinh lớp tôi rất thích thú. 3.1.4: Biện pháp thứ tư: Ôn các vần đã học qua tiết Tập đọc Hình thức này được tổ chức vào cuối tiết 1, giúp học sinh ôn lại vần đã học và góp phần rèn kĩ năng đọc cho học sinh qua tìm tiếng, từ, câu chứa vần ôn tập. Để linh hoạt hơn giúp tiết học sôi nổi hơn tôi tổ chức cho học sinh lớp mình thi tìm tiếng (từ, câu) ngoài bài có vần ôn qua trò chơi. Ví dụ: Em là nhà vô địch (hay một số trò chơi khác). Giáo viên nêu tên trò chơi, cách chơi, luật chơi, cho học sinh chơi mẫu. Học sinh chơi thi đua theo tổ. Giáo viên nhận xét, tổng kết trò chơi và tuyên dương. Trò chơi này học sinh tham gia rất sôi nổi, nhiệt tình, thi đua tìm được nhiều tiếng, từ, câu đúng có ý nghĩa và đem lại hiệu quả cao cho giờ dạy. Ví dụ: Ở bài “ Bàn tay mẹ ” học sinh tìm được nhiều từ ngoài bài như: “bãi cát, cái bát, lát nền, khát nước, mát mẻ, chẻ lạt, nhạt màu, nhàn hạ, khô khan, hạn hán, than củi, cái bàn, vầng trán, cái làn ”. Học sinh nói được nhiều câu như: 24