Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng tiết học hát Lớp 2

1: Cơ sở lí luận:

Lepton- Xtôi gọi âm nhạc là “ tốc ký của tình cảm”. Nhạc sĩ kiêm nhà phê bình âm nhạc Xer - Cốp thì gọi nó là “ ngôn ngữ của tâm hồn”, “ là lĩnh vực của tình cảm và những tâm trạng”, là “đời sống của tâm hồn biểu hiện bằng âm thanh”.

Trong xã hội hiện nay, giáo dục thiếu niên nhi đồng luôn là mối quan tâm của các quốc gia. Ở Việt Nam cũng vậy, mục tiêu giáo dục chỉ rõ rằng: Nhằm đào tạo những con người phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khỏe, thẩm mỹ và nghề nghiệp. Ngoài việc trang bị cho các em tri thức khoa học thì vấn đề giáo dục âm nhạc trong nhà trường phổ thông không chỉ là việc giảng dạy âm nhạc thuần túy mà thông qua âm nhạc còn tác động đến toàn bộ thế giới tư tưởng, tình cảm của học sinh- trước hết là tình cảm thẩm mỹ, đạo đức và trí tuệ của các em.

Chính vì vậy, âm nhạc có tác dụng to lớn đối với giáo dục nói chung và giáo dục trẻ thơ nói riêng. Nó là một phần quan trọng của chiếc chìa khóa mở cửa những nhân cách con người XHCN trong thời đại mới. 
 

pdf 33 trang Đào Bích 27/12/2023 2240
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng tiết học hát Lớp 2", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_nham_nang_cao_chat_lu.pdf

Nội dung text: Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng tiết học hát Lớp 2

  1. trình độ tin học, giao lưu học hỏi ở các trường bạn, cũng như sự giúp đỡ tạo điều kiện của bạn bè đồng nghiệp - VÒ phÝa gi¸o viªn được đào tạo chuyên ngành âm nhạc chính quy, nhiÖt t×nh, s¸ng t¹o, cã ý thøc ®æi míi ph•¬ng ph¸p d¹y häc theo tinh thần cuéc vËn ®éng: “Mçi gi¸o viªn lµ mét tÊm g•¬ng trong häc tËp vµ s¸ng t¹o” cña ngµnh ®Ò ra. - VÒ phÝa häc sinh được tiếp cận với âm nhạc dưới nhiều hình thức, các con đa phần høng thó häc tËp m«n ¢m nh¹c. - Nội dung các bài hát lớp 2 gần gũi với học sinh, giai điệu trong sáng, dễ thuộc, tiết tấu vui tươi, sôi nổi. 2.2. Khã kh¨n: Qua việc giảng dạy nhiều năm môn Âm nhạc tại trường tiểu học, tôi nhận thấy: - Âm nhạc là một môn học nghệ thuật đòi hỏi học sinh phải có chút năng khiếu nhưng giáo viên phải dạy trên phạm vi đại trà, số học sinh mỗi lớp lại lớn nên không tránh khỏi trong giờ dạy có nhiều đối tượng học sinh cùng một lúc (có và không có năng khiếu). Đây chính là một khó khăn của giáo viên dạy nhạc trong nhà trường phổ thông. Vẫn còn nhiều học sinh coi bộ môn âm nhạc là môn phụ, không cần thiết nên hạn chế năng lực nhận thức, phát triển âm nhạc của chính các em. - Một phần không nhỏ học sinh chưa mạnh dạn trước các bạn, chưa biết cách tư duy hoặc nắm bắt nội dung bài học còn chậm nên ảnh hưởng chung đến tiết học. - Nhà trường chưa có phòng học âm nhạc riêng. Nhìn vào thực tế đã nêu, tôi nhận thấy việc học hát không hề đơn giản, nhất là đối với học sinh lớp 2. Học sinh thì nhỏ tuổi, hiếu động có khi còn thuộc bài trước, giáo viên thì chủ quan cho rằng đó là các bài hát ngắn gọn, dễ dạy. Song nếu mỗi người giáo viên tìm được những biện pháp khắc phục và hướng dẫn học sinh một cách đúng đắn có phương pháp phù hợp, sáng tạo, biết sử dụng đồ dùng dạy học hợp lý, hiệu quả thì chắc chắn giờ học sẽ sinh động và hấp dẫn học sinh. II. Giải pháp thực hiện. 1, Điều tra phân loại học sinh: Để biết được kết quả học tập khả năng của học sinh, ngay từ tiết đầu tiên của năm học tôi thường phân loại học sinh thông qua một cuộc “kiểm tra nhỏ” về 8/30
  2. + Bước 2: Luyện tập vận động cả bài. Với những hoạt động và các bước nêu trên, giáo viên cần có sự chủ động, linh hoạt thay đổi phương pháp giảng dạy nhằm lôi cuốn học sinh vào tiết học. Bằng sự phát vấn, gợi mở, làm mẫu sinh động giáo viên dẫn dắt, giúp các em hát đúng giai điệu và lời ca, tiếng hát còn thể hiện được “cái hồn” của nhạc, có sức biểu cảm với những trạng thái khác nhau. Hệ thống các bài hát lớp 2, theo tôi, thường chia thành các thể loại: Bài hát dân ca, bài hát nước ngoài, bài hát về loài vật, bài hát về hoa lá, bài hát về chủ đề hòa bình, Đối với mỗi bài dạy đều có mục đích, yêu cầu, nội dung riêng, và tùy từng đối tượng học sinh, tôi thường thực hiện theo các bước sau: 2.1- Xác định mục tiêu bài học: Trong khi lên kế hoạch bài dạy, bao giờ tôi cũng tìm hiểu kĩ, xác định và đề ra rõ ràng mục tiêu của mỗi bài, thể hiện cụ thể những điều học sinh phải biết được (kiến thức), làm được (kĩ năng), và rút ra bài học gì cho bản thân (thái độ). Việc xác định mục tiêu tiết dạy cũng cần lưu ý tới từng đối tượng học sinh, từng lớp sẽ giúp tiết học đạt hiệu quả hơn. *Ví dụ 1: Tiết 4- Học hát: Bài Xòe hoa. + Về kiến thức: Học sinh biết đây là bài dân ca của dân tộc Thái ở Tây Bắc. HS biết hát theo giai điệu và đúng lời ca. + Về kĩ năng: Học sinh hát tập thể chính xác theo giai điệu thuộc lời ca; hát đều, hòa giọng, rõ lời. Biết hát kết hợp gõ đệm theo phách, nhịp. + Về thái độ: Học sinh thêm hiểu, yêu dân ca, có tinh thần vui vẻ, thêm yêu cuộc sống. *Ví dụ 2: Tiết 11- Học hát: Bài Cộc cách tùng cheng + Về kiến thức: Học sinh biết tên một số nhạc cụ dân tộc: Sênh, thanh la, mõ, trống. Biết hát theo giai điệu và lời ca. + Về kĩ năng: Học sinh hát đều, hòa giọng, rõ lời. Biết hát kết hợp gõ đệm theo tiết tấu lời ca. + Về thái độ: Học sinh thấy được cái hay, cái độc đáo của những nhạc cụ dân tộc Việt Nam, từ đó thêm niềm tự hào dân tộc. *Ví dụ 3: Tiết 31- Ôn tập bài hát Bắc kim thang – Tập hát lời mới. + Về kiến thức: Học sinh hát đúng giai điệu và lời ca (Gồm lời bài hát và 2 lời ca mới). + Về kĩ năng: Học sinh biểu diễn tự nhiên với động tác vận động phụ họa. 10/30
  3. khó hiểu. Đặc biệt việc dùng đàn phím điện tử, đĩa CD hát mẫu là rất cần thiết và không thể thiếu trong giờ học hát, nó giúp học sinh hát chính xác về cao độ, tạo sự tập trung học tập, giáo viên không cảm thấy mệt mỏi, rát họng vì phải hát mẫu nhiều, thậm chí nó còn khắc phục tình trạng “hát chênh, hát phô”, hát không chuẩn xác của giáo viên. Chuẩn bị trình chiếu lời ca nhằm thu hút 100% học sinh tập trung về một hướng, cùng khai thác và thực hiện các nội dung học tập theo sự hướng dẫn của giáo viên. Bảng lời ca bao gồm các phần: Lời ca bài hát; Lời ca có đánh dấu chỗ lấy hơi, gõ đệm theo nhịp, phách hoặc tiết tấu lời ca. Được thực hành với các nhạc cụ gõ là cách thức luyện tập giúp các con chắc nhịp phách trường độ một bài hát rất tốt, việc học sinh chuẩn bị trước ở nhà những bài hát cùng chủ đề, chủ điểm, động tác vận động phụ họa, kích thích trí tò mò muốn khám phá cái mới ở học sinh. Làm được như vậy chứng tỏ sự chủ đạo của thầy, sự chủ động sáng tạo của trò một yêu cầu cơ bản trong “đổi mới phương pháp dạy học” hiện nay. 2.3- Các hoạt động dạy và học: Khi soạn kế hoạch bài dạy cho các tiết học, tôi thường chia thành các hoạt động cơ bản: - Hoạt động 1: Học hát (Ôn bài hát đối với tiết 2) - Hoạt động 2: Hát kết hợp gõ đệm (Vận động phụ họa đối với tiết 2) - Hoạt động 3: Luyện tập (Tập biểu diễn ) Đối với từng lớp, từng đối tượng học sinh, tôi luôn dự kiến các yêu cầu, các câu hỏi, các phương pháp dạy học trong từng hoạt động để giúp học sinh nắm vững bài học. 2.4- Các bước tiến hành dạy một bài hát lớp 2: Trong quá trình dạy và học, việc giải quyết đồng thời những thao tác cơ bản: Nhìn – nghe – ghi nhớ - thực hành sáng tạo dựa trên nguyên tắc “ Học mà vui – Vui mà học” góp phần không nhỏ để giờ học đạt tới sinh động, hiệu quả. Tiến hành tổng hợp những thao tác cơ bản trong một giờ giúp giáo viên và học sinh hoạt động nhịp nhàng, tạo bầu không khí vui – thoải mái – một yêu cầu cơ bản trong giờ âm nhạc- đặc biệt là giờ học hát. 2.4.1: Học hát a, Giới thiệu bài: Thời gian từ 1 đến 2 phút. * Mục đích: Giúp học sinh nắm được nội dung tiết học và tạo hứng thú cho học sinh. 12/30
  4. *Ví dụ 2: Tiết 9- Học hát: Bài Chúc mừng sinh nhật. - Tôi dùng một bức ảnh về tiệc sinh nhật (có bánh gato, nến, hoa, ) để gây ấn tượng với các em học sinh, đặt câu hỏi: ? Con thấy bức ảnh chụp cảnh gì?- HSTL Rồi tôi giới thiệu: Mỗi người đều có một ngày sinh. Đó là một ngày vui đầy ý nghĩa. Gia đình, người thân, bạn bè thường chia vui và chúc mừng khi chúng ta kỉ niệm ngày sinh. Có một bài hát để chúng ta cùng hát chúc mừng nhau – Đó là bài hát: Chúc mừng sinh nhật (Nhạc Anh – Lời Việt: Đào Ngọc Dung) - Tôi đưa thêm bản đồ Châu Âu để giới thiệu vị trí nước Anh giúp học sinh 14/30
  5. Đến tiết ôn bài hát, tôi cho học sinh nghe bài đĩa hát mẫu do các em thiếu nhi trình bày, sự chuẩn mực về diễn xuất và đảm bảo về tính nghệ thuật sẽ giúp học sinh ôn tập và biểu diễn một cách tốt nhất. c, Đọc lời ca: (Bước này chỉ thực hiện ở tiết dạy bài hát mới hoặc bài hát có lời mới học ở tiết 2) Đọc lời ca giúp cho các em cảm nhận nội dung và phát âm đúng. Đối với học sinh lớp 2 việc rèn đọc đúng là một quá trình liên tục và ở tất cả các môn học khác, do vậy ở bước này tôi uốn nắn các em rất kĩ việc đọc đúng chính tả, đặc biệt là phát âm l, n. Thao tác này còn giúp các em học tốt phân môn Tập đọc. Để tiến hành đọc lời ca, tôi thực hiện 3 bước nhỏ như sau: - Đọc trơn (tức là đọc không theo tiết tấu lời ca): Bước này tôi đưa ra Slide bảng lời ca cho các em quan sát rồi đọc. Học sinh lớp 2 đã đọc tương đối tốt văn bản do đó thay vì việc đọc mẫu cho học sinh nghe, tôi gọi mét em đọc tốt đọc cho cả lớp nghe sau đó yêu cầu cả lớp đọc đồng thanh từ mét đến hai lần. - Giảng từ khó: Nếu trong lời ca bài hát nào đó có từ khó tôi giảng cho các em hiểu để các em nắm vững hơn nội dung bài hát. Ví dụ 1: Bài Xòe hoa (Dân ca Thái): Trong lời ca, có từ “ xòe hoa” : xòe theo tiếng Thái nghĩa là múa, xòe hoa là múa hoa, còn có từ “ chiêng, khèn”: là nhạc cụ của đồng bào dân tộc. Ví dụ 2: Bài Chim chích bông: Với lời ca bài này, tôi giảng từ “ bụi chuối ”: là một khóm gồm nhiều cây chuối mọc sát nhau. Ví dụ 3: Bài Cộc cách tùng cheng: Tôi giảng tiếng “sênh” là một loại nhạc cụ gõ của Việt Nam và giới thiệu cho các em biết hình ảnh và nhạc cụ “sênh tiền”. Ví dụ 4: Bài B¾c kim thang: T«i gi¶i nghÜa tªn bµi h¸t “B¾c kim thang” ®•îc xuÊt ph¸t tõ trß ch¬i ®ång giao ngµy x•a cña ng•êi d©n Nam Bé: “b¾t con ngùa gç mµu n©u” ; “cµ lang bÝ rî”- mét kho¶ng s©n réng tr•íc nhµ; “cét” , “kÌo”, “tД t«i hái häc sinh tù nªu Häc sinh ®•îc thªm hiÓu biÕt c¸c con rÊt thÝch thó. - Đọc lời ca theo tiết tấu: Đây là bước quan trọng giúp học sinh khi hát sẽ hát chính xác hơn về tiết tấu, trường độ của bài hát. Ở bước này, tôi thường đọc mẫu từng câu đúng tiết tấu lời ca rồi bắt nhịp cho các em đọc. Khi học sinh đọc, tôi gõ đệm bằng thanh phách cho học sinh đọc 16/30
  6. Khi cho học sinh học hát, tôi hát mẫu từng câu mét đến hai lần thật chuẩn xác rồi bắt nhịp cho học sinh hát. Khi hát mẫu và dùng đàn đàn giai điệu tay phải, đến khi các em hát tôi đánh giai điệu, đệm hợp âm rải để các em nghe và hát tốt. Việc hát mẫu và đàn từng câu hát tôi luôn linh hoạt với mỗi bài hát, câu hát và đối tượng học sinh cụ thể để làm sao vừa hiệu quả vừa tránh việc mất thời gian không cần thiết. Bên cạnh đó việc dùng đàn trong khi dạy hát vô cùng quan trọng. Tôi dùng tiếng piano không có phần đệm tự động, tay phải tôi đánh giai điệu, tay trái đệm hợp âm rải. thao tác này giúp học sinh nghe rõ hơn giai điệu và hát chính xác hơn. Mỗi câu hát, giáo viên hát mẫu rồi bắt nhịp, đệm đàn cho học sinh hát hai đến ba lần, ghép lần lượt đến hết bài. Nhằm phát huy tính tích cực, chủ động trong việc lĩnh hội tri thức của học sinh. Ở phần dạy hát, tôi không chỉ hát mẫu toàn bài để dạy cho học sinh mà xét thấy có những bài hát có hai lời hoặc có những câu giống nhau về giai điệu và tiết tấu tôi đã gợi mở, phát vấn để học sinh tự nhận ra và có thể hát luôn. Ví dụ 1: Bài Chiến sĩ tí hon C1: Kèn vang đây đoàn quân. Đều chân ta cùng bước. C3: Nào ta đi cùng nhau. Đều chân theo nhịp trống. Ví dụ 2: Bài Hoa lá mùa xuân: C1: Tôi là lá, tôi là hoa. Tôi là hoa lá hoa mùa xuân. C3: Xuân vừa đến trên cành cao, cho ngàn muôn lá hoa đẹp tươi. Ví dụ 3: Bài Chú ếch con. Đây là bài hát có hai lời hoàn toàn giống nhau về giai điệu và tiết tấu, được dạy trong 2 tiết. Sau khi hướng dẫn kĩ lời 1, học sinh đã hát tốt, đến khi dạy hát lời 2 ngay từ đầu tôi tiến hành cho các em nghe toàn bộ bài hát mẫu rồi yêu cầu học sinh nhận xét giai điệu lời 2 với giai điệu lời 1 (giống nhau). Nếu có câu khó, tôi hướng dẫn thật kĩ và sửa kịp thời. Trong quá trình dạy hát học sinh cũng được phát hiện những tiếng hát có luyến trong mỗi câu hát, làm cho các con luôn có tinh thần thi đua hào hứng. Ví dụ : Bài Chim chích bông. Câu hát: “Từ cành na ra cành bưởi ”; “Em vẫy gọi chích bông ơi” - tiếng “bưởi”, “ơi” có luyến. Ví dụ : Bài Bắc kim thang. 18/30
  7. tí te tò te” , các từ “đánh trống” là chấm giật, “tò tí te tò te” đều là móc đơn các em thường hát không chính xác nên giáo viên cần lắng nghe để sửa luôn. đ, Luyện tập: Để giúp học sinh hát đúng giai điệu và thuộc lời ca, tôi cho các em luyện tập nhiều lần, kịp thời sửa sai và điều chỉnh cách hát của các em sao cho tiếng hát có chất lượng nhất. Việc luyện tập luân phiên giữa các tổ, nhóm, cá nhân là hình thức tôi thường dùng để củng cố bài, tạo không khí làm việc tích cực, có tác dụng động viên tất cả học sinh đều tham gia vào bài học. Tôi đã linh hoạt thay đổi bằng các hình thức luyện tập khác nhau như: Hát đối đáp, nối tiếp, hát lĩnh xướng hòa giọng tùy thuộc vào từng bài hát. Công việc này giúp tôi bao quát lớp tốt hơn, lắng nghe kĩ hơn phần hát của học sinh để điều chỉnh kịp thời đồng thời giúp giữ gìn giọng hát của trẻ và có thời gian để học sinh lắng nghe bạn hát rồi rút kinh nghiệm cho chính mình. Ví dụ : Bài Xoè hoa: Tôi chia lớp thành hai nửa, yêu cầu các em theo tay tôi chỉ huy, luân phiên mỗi nửa hát một câu: Câu 1: Bùng boong vang vang- Nửa lớp bên phải hát. Câu 2: Nghe tiếng chiêng . rộn ràng- Nửa lớp bên trái hát. Câu 4: Tay nắm tay xoè hoa- Nửa lớp bên trái hát. Các em cứ luân phiên hát đổi bên cho đến khi thuộc bài. Ví dụ : Bài Hoa lá mùa xuân: Tôi chỉ định mỗi tổ một câu hát, cho các em hát nối tiếp: Câu 1: Tôi là lá hoa lá hoa mùa xuân- Tổ 1 hát. Câu 2: Tôi cùng múa mừng xuân- Tô 2 hát. Câu 3: Xuân vừa đến đẹp tươi. - Tổ 3 hát. Câu 4: Cho nhựa mới nơi nơi.- Tổ 4 hát. Có thể tiến hành vài lượt, đổi câu cho các em thuộc bài. Những cách trên đã làm cho tiết học phong phú hơn, đảm bảo mục tiêu “ Học vui – Vui học”. Ví dụ : Bài Múa vui: Tôi mời một học sinh hát lĩnh xướng 2 câu hát đầu từ: “Cùng nhau múa .cùng nhau múa đều”; cả lớp sẽ hát hòa giọng câu hát 3,4: “ Nắm tay nhau .cùng nhau múa đều”. e, Ôn bài hát (đối với tiết ôn tập): 20/30
  8. phải tận dụng, nó cũng giúp tiết học sinh động hơn, học sinh được vận động nhẹ nhàng. Có 3 cách gõ đệm chúng ta vẫn thường dùng để truyền dạy cho học sinh, ở trường tôi ngay từ lớp 1 các em đã nắm rõ và thực hành rất tốt, đó là: gõ đệm theo nhịp, gõ đệm theo phách, gõ đệm theo tiết tấu lời ca. Để phân biệt và áp dụng 3 cách gõ đệm này, tôi đã giảng cho học sinh một cách đơn giản, dễ hiểu nhất: - Gõ đệm theo nhịp là cách gõ đều nhau, gõ vào các chữ được hát nhấn ở mỗi câu hát, khi gõ thì gõ 1 tiếng rồi mở tay ra và các thao tác “gõ mở” cứ đều đặn như vậy cho đến hết bài. - Gõ đệm theo phách là cách gõ đều nhau, gõ vào các chữ được hát nhấn cũng như hát bình thường ở mỗi câu hát, khi gõ thì gõ 1 tiếng ở mặt to của thanh phách, 1 tiếng ở cạnh nhỏ của thanh phách. - Gõ đệm theo tiết tấu lời ca là cách gõ vào tất cả các chữ có trong bài hát, nghĩa là hát chữ nào thì gõ vào chữ đó. Khi vào từng bài hát với từng cách gõ đệm tôi làm mẫu rõ ràng để các em nắm được và thực hành đúng. Với mỗi bài hát, trong 1 tiết học khoảng 35 phút, phần gõ đệm chiếm khoảng 10 phút đến 12 phút, do vậy tôi đã linh hoạt áp dụng các cách gõ đệm sao cho hiệu quả và học sinh hứng thú nhất. Cũng không thể áp dụng cả 3 cách trong 1 giờ học, và cũng tùy thuộc vào mỗi bài hát, tôi chọn 1 đến 2 cách gõ đệm phù hợp để hướng dẫn học sinh. Việc dùng slide trình chiếu lời ca có đánh dấu chỗ gõ đệm sẽ giúp học sinh định hình được dễ dàng và gõ đúng hơn. Ví dụ 1: Bài Múa vui- Gõ đệm theo phách, theo tiết tấu lời ca (TTLC ): Hát: Cùng nhau múa xung quanh vòng, cùng nhau múa cùng vui. TTLC: * * * * * * * * * * * Phách: * * * * * * * * Ở bài này, tôi hướng dẫn các em cách gõ đệm theo TTLC trước, bởi cách này dễ thực hiện, tạo không khí vui tươi, rộn ràng cho tiết học. Tuy nhiên, trong khi thực hiện cách gõ đệm này học sinh rất dễ bị cuốn nhịp do vậy giáo viên cần hướng dẫn và giữ nhịp chắc để học sinh gõ đúng. Tôi thường khắc phục tình trạng này bằng cách khi tập gõ đệm từng câu, tôi cho các em gõ đệm và hát không có nhạc đệm, khi đã thuần thục cả bài tôi yêu cầu các em gõ nhỏ, vừa gõ vừa nghe nhạc sau cùng gõ rõ ràng hơn và hát thật đều. 22/30
  9. luôn tìm nhiều biện pháp để thu hút sự chú ý của học sinh càng chứng tỏ năng lực điều hành lớp học của giáo viên. 2.4.3: Tâp vận đông phụ hoạ ( nội dung này thường diễn ra ở tiết 2): Đối với học sinh tiểu học được vận động chính là thể hiện khả năng sáng tạo của mình. Khi học sinh đã hát đúng giai điệu và lời ca thì việc hướng dẫn một số động tác vận động phụ hoạ đơn giản sẽ giúp phát triển thể lực cho các em . Để đảm bảo cho tất cả hoc sinh biết vận động và không bỡ ngỡ khi thực hành, ngay từ tiết học đầu tiên hoặc tiết tăng cường tôi trang bị và tập cho các em một số động tác cơ bản, đơn giản như: nhún từng chân, nhún bước sang ngang, từng tay vung lên, hai tay vung lên, động tác hái đào một tay, hái đào hai tay, động tác mõ mời, hai tay vòng ở trên đầu, Trước mỗi bài hát, tôi nghiên cứu xuất sứ, nội dung, sắc thái để từ đó tìm những động tác vận động phù hợp để hướng dẫn học sinh. Ví dụ: Bài Múa vui Câu 1: Cùng nhau múa xung quanh vòng cùng nhau múa cùng vui. Tay phải đưa lên để vòng tròn trên đầu, tiếp đến tay trái. Câu 2: Cùng nhau múa xung quanh vòng vui cùng nhau múa đều. Hai tay vòng tròn ở trên đầu nghiêng sang phải, nghiêng sang trái rồi mở ra hai bên. Câu 3: Nắm tay nhau, bắt tay nhau vui cùng vui múa ca. Hai tay vỗ vào nhau theo tiết tấu lời ca rồi múa hái đào sang bên phải. Câu 4: Nắm tay nhau, bắt tay nhau vui cùng vui múa đều Hai tay vỗ vào nhau theo tiết tấu lời ca rồi múa hái đào sang bên trái. Ví dụ : Bài Chú ếch con Lời 1: Câu 1: Kìa chú là chú ếch con có đôi là đôi mắt tròn Tay phải chỉ ra phía trước, hai tay đưa lên hai mắt ngón trỏ và ngón cái vòng tròn, chân nhún theo nhịp. Câu 2: Chú ngồi học bài một mình bên hố bom kề vườn xoan Động tác mõ mời bốn lần đổi bên, chân nhún theo nhịp. Câu 3: Bao nhiêu chú trê non cùng bao cô cá rô ron. Vỗ tay theo tiết tấu lời ca bên phải, bên trái, người nghiêng theo bên vỗ. Câu 4: Tung tăng chiếc vây son nhịp theo tiếng ếch vang dồn. Hai tay để sau hông giả làm “vây cá” vẫy hai bên theo nhịp, chân nhún theo nhịp. Lời 2: Câu 1: Kìa chú là chú ếch con bé ngoan là ngoan nhất nhà. 24/30
  10. Giáo viên nêu một số nhạc cụ mà các em đã biết, qui định âm tượng thanh và động tác sau đó tổ chức cho học sinh thực hành. Ví dụ: Bài Xoè hoa. Câu 1: Hát tình tính tinh .- hai tay làm động tác đánh đàn ghi- ta. Câu 2: Hát tung tung tung.- hai tay làm động tác đánh trống. Câu 3: Hát cheng cheng - hai tay làm động tác gõ chiêng. Câu 4: Hát lời ca, chân nhún đều. Ví dụ : Bài Chiến sĩ tí hon Câu 1: Hát tò tí te – làm động tác thổi kèn. Câu 2: Hát tùng tung tung . – làm động tác đánh trống. Câu 3: Hát tình tính tinh – làm động tác đánh đàn. Câu 4: Hát lời ca, chân dậm đều. * Tập làm nhạc trưởng: Trò chơi này giúp học sinh thêm mạnh dạn, tự tin, phát huy năng khiếu của mình. Tôi chọn ở các lớp một số em có tố chất, tiếp thu tốt, hướng dẫn các em cách đánh nhịp đơn giản ( chủ yếu là nhịp 2/4) sau đó chỉ huy cho cả lớp hát. Em nào được chọn để chỉ huy tỏ ra đều rất hào hứng và cố gắng thể hiện mình, còn khi lớp hát có bạn chỉ huy học sinh đã rất chú ý và thích thú. * Nghe giai điệu- đoán câu hát; Nghe tiết tấu- đoán bài hát: Trò chơi này góp phần phát triển tai nghe năng lực cảm thụ âm nhạc cho học sinh. Tôi thường tổ chức trò chơi này ở tiết ôn tập khi muốn các em nhận ra bài hát đã học hoặc tổ chức ở phần củng cố bài dạy. * Tập biểu diễn- hay trò chơi: Em tập làm ca sĩ hoặc Ca sĩ và những khán giả. Hoàn thiện bài không chỉ là việc hát đúng giai điệu và lời ca mà quan trọng hơn đó là việc các em biết hát có sắc thái biểu cảm, biết thể hiện bài hát trước tập thể một cách tự tin, mạnh dạn. Mặt khác các con được tập mình là những ca sĩ nhí hoặc là những khán giả thanh lịch văn minh, học sinh vô cùng thích thú. Tuỳ từng bài hát với nội dung, giai điệu và tiết tấu riêng tôi đã chọn hình thức biểu diễn hợp lý để hướng dẫn các em như đơn ca, song ca, tốp ca, . Tuy nhiên với học sinh lớp 2, việc biểu diễn không cần phân định rõ như vậy, việc giáo viên cần làm là giúp học sinh thể hiện bài thật vui tươi, hồn nhiên, trong sáng. Tôi thường cho các em biểu diễn theo nhóm, thi đua giữa các tổ đối với những bài hát mang tính chất tập thể như: Múa vui, Xoè hoa, Chiến sĩ tí hon, Tổ chức cho các em đóng nhân vật hát theo vai ở các bài hát diễn tả hoa lá, con vật như: Hoa lá mùa xuân, Chim chích bông, Chú ếch con, Bắc kim thang, Cũng có khi tôi hướng dẫn biểu diễn gồm một nhóm khoảng 3-5 học sinh hát kết 26/30
  11. Bài Chú ếch con: Giáo dục cho học sinh thái độ chăm chỉ học tập và tích cực tham gia vào các hoạt động văn hoá, văn nghệ . Lưu ý: Giáo viên không nên kéo dài phần này, chỉ gợi ý câu hỏi để học sinh thấy được ý nghĩa của bài học bởi đây chỉ là phần nhỏ trong tiết học. => Như vậy, qua các biện pháp tiến hành với các ví dụ cụ thể nêu trên tôi đã dần dần dẫn dắt học sinh tham gia vào nhiều hoạt động khác nhau, làm cho không khí các tiết học hát thêm sôi nổi, sinh động, thu hút được sự yêu thích của các em đối với bộ môn nghệ thuật đầy hấp dẫn này. III) Kết quả thực hiện: Với việc thực hiện các biện pháp nên trên, tôi nhận thấy sự tiến bộ rõ rệt của học sinh, chất lượng năm sau cao hơn năm trước, chất lượng cuối năm cao hơn đầu năm. Sự tiến bộ không chỉ ở quá trình tiếp thu kiến thức mà còn thể hiện ở các hoạt động như văn nghệ, hoạt động tập thể, .Các em đã dần mạnh dạn, tự tin thể hiện mình trước đám đông, trước tập thể. Bảng số liệu kết quả Lớp Sĩ số Năm 2013- 2014 ®Çu n¨m häc/ cuèi n¨m häc Hát hay, vận động Hát đúng, vận động hạn chế Hát chưa hay, thiếu tự tin tự tin 2D 50 4hs(8%)/ 8hs (16%) 36hs(72%)/ 34hs (68%) 10hs(20%)/ 8hs (16%) 2E 58 6hs(10,3%)/ 40hs(69%)/ 36hs (62%) 12hs(20,7%)/ 8hs 10hs(17,2%) (13,8%) 2G 54 5hs(9,3%)/ 9hs (17%) 40hs(74%)/ 38hs (70%) 9hs(16,7%)/ 7hs (13%) Lớp Sĩ số Năm 2014- 2015 ®Çu n¨m häc/ cuèi n¨m häc Hát hay, vận động Hát đúng, vận động Hát chưa hay, thiếu tự tin hạn chế tự tin 2D 65 6hs(9%)/ 12hs 46hs(71%)/ 43hs (66%) 13hs(20%)/ 10hs (15,4%) (18,6%) 2E 66 6hs(9,1%)/ 12hs(18%) 46hs(69,7%)/ 42hs (64%) 14hs(21,2%)/ 12hs (18%) 2G 51 5hs(9,8%)/ 10hs 37hs(72,5%)/34hs (66,7%) 9hs(17,7%)/ 7hs (13,7%) (19,6%) 28/30