Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp học sinh Lớp 3 giải bài toán bằng hai phép tính

Trong tình hình hiện nay, giáo dục là một vấn đề được cả xã hội quan tâm. Đảng và nhà nước ta coi giáo dục là quốc sách hàng đầu. Bậc học tiểu học được coi là nền tảng của các bậc học. Quá trình học ở tiểu học là nền móng cho học sinh có vốn kiến thức để học tiếp lên các lớp trên. Trong các môn học mà học sinh học ở bậc tiểu học, môn Toán là bộ môn rất quan trọng. Đây là môn học chiếm tương đối nhiều thời gian học của học sinh trong suốt quá trình học phổ thông. Đây cũng là môn học có rất nhiều ứng dụng trong thực tiễn cuộc sống. Cùng với các môn học khác, môn Toán góp phần hình thành nhân cách cho học sinh.

Ở bậc tiểu học, môn Toán cung cấp cho học sinh những hiểu biết ban đầu một cách tương đối có hệ thống về số tự nhiên, phân số, số thập phân, các đại lượng thông dụng, một số yếu tố hình học và thống kê đơn giản; hình thành các kỹ năng thực hành tính, đo lường, giải bài toán có nhiều ứng dụng thiết thực trong đời sống; bước đầu phát triển năng lực tư duy, khả năng suy luận hợp lí và diễn đạt đúng cách phát hiện và cách giải quyết vấn đề đơn giản, gần gũi trong cuộc sống, kích thích trí tưởng tượng, chăm học và hứng thú học tập toán, hình thành bước đầu phương pháp tự học và làm việc có kế hoạch khoa học, chủ động, linh hoạt, sáng tạo.

docx 33 trang Đào Bích 25/12/2023 920
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp học sinh Lớp 3 giải bài toán bằng hai phép tính", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • docxsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_giup_hoc_sinh_lop_3_g.docx

Nội dung text: Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp học sinh Lớp 3 giải bài toán bằng hai phép tính

  1. Một số biện pháp giúp học sinh lớp 3 giải toán bằng hai phép tính PHẦN MỞ ĐẦU I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI Trong tình hình hiện nay, giáo dục là một vấn đề được cả xã hội quan tâm. Đảng và nhà nước ta coi giáo dục là quốc sách hàng đầu. Bậc học tiểu học được coi là nền tảng của các bậc học. Quá trình học ở tiểu học là nền móng cho học sinh có vốn kiến thức để học tiếp lên các lớp trên. Trong các môn học mà học sinh học ở bậc tiểu học, môn Toán là bộ môn rất quan trọng. Đây là môn học chiếm tương đối nhiều thời gian học của học sinh trong suốt quá trình học phổ thông. Đây cũng là môn học có rất nhiều ứng dụng trong thực tiễn cuộc sống. Cùng với các môn học khác, môn Toán góp phần hình thành nhân cách cho học sinh. Ở bậc tiểu học, môn Toán cung cấp cho học sinh những hiểu biết ban đầu một cách tương đối có hệ thống về số tự nhiên, phân số, số thập phân, các đại lượng thông dụng, một số yếu tố hình học và thống kê đơn giản; hình thành các kỹ năng thực hành tính, đo lường, giải bài toán có nhiều ứng dụng thiết thực trong đời sống; bước đầu phát triển năng lực tư duy, khả năng suy luận hợp lí và diễn đạt đúng cách phát hiện và cách giải quyết vấn đề đơn giản, gần gũi trong cuộc sống, kích thích trí tưởng tượng, chăm học và hứng thú học tập toán, hình thành bước đầu phương pháp tự học và làm việc có kế hoạch khoa học, chủ động, linh hoạt, sáng tạo. Quá trình cung cấp kiến thức toán học cho học sinh trong dạy học ở tiểu học được chia thành hai giai đoạn thì nội dung toán học lớp 3 được coi là cầu nối để học sinh học tiếp ở giai đoạn hai. Ở lớp 3, các em tiếp tục hoàn thiện những kiến thức kĩ năng của giai đoạn một và chuẩn bị cho sự phát triển cao hơn về kiến thức kĩ năng của giai đoạn hai ở lớp 4 và lớp 5. Trong chương trình toán học ở lớp 3, mạch kiến thức về giải toán chiếm khoảng 9% tổng thời lượng của môn học nhưng lại vô cùng quan trọng đối với học sinh bởi: bước đầu giúp học sinh làm quen giải toán hợp, nội dung này còn được học kết hợp với nội dung dạy số học, hình học và bước đầu yêu cầu học sinh biết tư duy, tìm tòi, sáng tạo khi biết vận dụng các bài toán đơn đã học để giải toán. . . Đặc biệt hơn, với học sinh lớp 3, việc giải thành thạo các bài toán bằng hai phép tính là vô cùng cần thiết bởi những kiến thức này chính là cơ sở để học sinh vận dụng học ở giai đoạn hai khi giải những bài toán nhiều hơn hai phép tính, những dạng toán điển hình. . . . Khả năng tư duy để tìm ra các bước giải bài toán bằng hai phép tính ở 1
  2. Một số biện pháp giúp học sinh lớp 3 giải toán bằng hai phép tính PHẦN NỘI DUNG I. CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1. Cơ sở lí luận Các bài tập về giải toán bằng hai phép tính thực chất là các bài tập yêu cầu học sinh phải nắm được các bài toán đơn đã học và biết vận dụng các bài toán đơn ấy để giải quyết các bài toán giải bằng hai phép tính từ việc suy luận, thấy được mối liên hệ giữa hai phép tính đó để làm thành các bước giải cho bài toán giải bằng hai phép tính. Tuy nhiên, để làm được các bài tập này, các em phải nắm được mấu chốt của vấn đề là để giải quyết được yêu cầu của bài cần xem xét điều chưa biết có liên quan thế nào với các dữ kiện đã cho trong bài toán. Từ việc hiểu mấu chốt về các mối liên quan giữa cái đã biết và cái cần tìm của bài toán đó, học sinh phải biết vận dụng các dạng toán đã học với các kĩ năng tính toán mà các em có được khi học toán để thành lập các bước giải cho bài toán nghĩa là các em đã giải quyết được yêu cầu của đề bài. Việc xây dựng các bài tập về giải các bài toán giải bằng hai phép tính dựa vào các kiến thức về giải toán có lời văn mà học sinh đã có khi học toán 1 , 2 và các dạng toán đơn mà các em được học trong chương trình môn Toán ở lớp 3. Với lứa tuổi của học sinh tiểu học, đặc biệt là học sinh học lớp 3, các em thường bắt chước hoặc ghi nhớ một cách máy móc. Việc học tập giúp các em hình thành và phát triển ghi nhớ có ý nghĩa, biết lập luận để tìm ra sự liên quan giữa dữ kiện bài toán cho biết và yêu cầu của bài. Những kiến thức các em có được qua học tập môn Toán và được gắn liền với thực tiễn đời sống sẽ được các em nhớ lâu, kích thích ở các em sự liên tưởng, tìm tòi, khám phá và sáng tạo. Nhờ đó ghi nhớ của trẻ có ý nghĩa và chất lượng hơn. Những khác biệt về nhận thức về khả năng tư duy của trẻ thường được biểu hiện rõ nét trong việc suy luận và vận dụng kiến thức đã học vào thực tế. Ngày nay, nhà trường hiện đại lấy học trò là nhân vật trung tâm của quá trình dạy học, học trò mới là chủ thể của quá trình học. Trẻ em ngày nay rất thông minh, nhanh nhẹn trong việc nắm bắt cái mới, biết vận dụng kiến thức học trong nhà trường vào thực tiễn đời sống rất nhanh. Bởi thế giáo dục cần trang bị cho trẻ những kiến thức kĩ năng phù hợp với nhận thức của các em. 3
  3. Một số biện pháp giúp học sinh lớp 3 giải toán bằng hai phép tính Trong thực tế giảng dạy có những nội dung kiến thức mà giáo viên đưa ra nhiều học sinh không hiểu được bản chất của nội dung đó mà chỉ áp dụng một cách máy móc. Chính vì vậy nên khi có một nội dung nào đó có yêu cầu cao hơn, đòi hỏi các em phải suy luận các em sẽ lúng túng, không biết suy luận để tìm ra cách giải. Nội dung dạy giải bài toán bằng hai phép tính cũng vậy, đây là nội dung mới mẻ và rất khó đối với học sinh. Đối với học sinh lớp 3, khả năng suy luận của các em còn hạn chế, lần đầu tiên các em phải giải nhũng bài toán đòi hỏi phải tư duy, suy luận nhiều. Khi giải các bài toán đơn, việc tìm câu lời giải cho phép tính, đa số các em đều dựa vào câu hỏi của bài toán nên khi giải những bài toán bằng hai phép tính, việc tìm câu lời giải cho phép tính thứ nhất nhiều em còn hạn chế. Nhiều em còn sai khi ghi danh số của các phép tính, đặc biệt là những bài toán mà danh số của hai phép tính không giống nhau. Ở lớp 3, các bài toán giải bằng hai phép tính rất nhiều dạng mà hầu như chẳng thể xếp những bài toán ấy thành dạng điển hình nào nên việc giải các bài toán đó lại càng khó khăn với các em. Còn đối với giáo viên, dạy học sinh giải bài toán bằng hai phép tính đôi khi cũng còn những hạn chế như chưa khắc sâu cho học sinh mỗi phép tính giải trong bài chính là dạng toán đơn nào các em đã học, chưa hướng dẫn học sinh mối quan hệ giữa các phép tính trong bài toán, câu hỏi để gợi ý học sinh tìm bước giải còn chưa sát, chưa khái quát được những dạng toán giải bằng hai phép tính, Trong quá trình giảng dạy, giáo viên có thể chỉ hướng dẫn học sinh giải những bài toán bằng hai phép tính trong sách giáo khoa mà chưa chú trọng đến việc khắc sâu dạng toán, chưa đưa ra được những hình thức dạy học toán nhằm phát triển tư duy năng lực của học sinh, chưa đòi hỏi ở các em sự tập trung suy nghĩ, tìm tòi, khám phá, nên nội dung dạy học còn đơn điệu, tẻ nhạt. Chính vì vậy mà hiệu quả của việc giải toán còn có những hạn chế nhất định. III. CÁC BIỆN PHÁP CỤ THỂ 1. Hướng dẫn học sinh nắm chắc cách giải các bài toán đơn Các bài toán đơn học sinh được học bao gồm các bài toán giải bằng một trong các phép tính cộng, trừ, nhân, chia. Đây là các bài toán các em được học trong chương trình môn Toán của các lớp 1, 3 và nửa đầu học kì 1 ở lớp 3. Ngoài ra, các em còn được học khi giải các bài toán liên quan đến tính chu vi, diện tích của hình chữ nhật, hình vuông. Các bài toán đơn mà học sinh đã học 5
  4. Một số biện pháp giúp học sinh lớp 3 giải toán bằng hai phép tính các dữ kiện đã cho và yêu cầu cần tìm để các em nhớ lại xem bài toán đó thuộc dạng toán nào đã học, để giải được bài toán đó thì cần sử dụng phép tính nào, có những cách đặt câu lời giải cho phép tính đó như thế nào, Ở lớp 3, học sinh được ôn lại một số dạng toán đơn đã học như bài toán về nhiều hơn, bài toán về ít hơn, bài toán về tìm số hạng trong một tổng, bài toán về gộp hai số; bài toán về so sánh hai số hơn kém nhau bao nhiêu đơn vị. Đặc biệt, ở lớp 3, khi các em được học bảng nhân 6, bảng nhân 7, bảng nhân 8, bảng nhân 9, các bảng chia 6, bảng chia 7, bảng chia 8, bảng chia 9 thì các em đều được giải các bài toán đơn về gộp các nhóm bằng nhau, chia đều, chia thành các nhóm bằng nhau. Các dạng toán này còn được củng cố khi học về nhân số có 2; 3; 4; 5 chữ số với số có 1 chữ số và chia số có 2; 3; 4; 5 chữ số cho số có 1 chữ số. Vì vậy, khi gặp các bài toán này, tôi đã vận dụng những hiểu biết đã có của học sinh để các em tự tìm ra dạng toán và cách giải bài toán. Chính từ việc gợi ý của giáo viên để củng cố, khắc sâu dạng toán mà các em luôn có tâm thế phải suy nghĩ phải tìm tòi, phải đưa ra được cách giải cho bài toán, từ đó các em sẽ nhớ lâu dạng toán đã học. Việc dạy học bằng phương pháp gợi mở như trên, tôi đã giúp học sinh được rèn luyện, củng cố kiến thức đồng thời cũng đã giúp các em lấy việc giải các bài toán có lời văn làm phương tiện để phát triển tư duy. Còn khi dạy các dạng toán đơn mới ở lớp 3 như dạng toán về gấp một số lên nhiều lần, tìm một trong các phần bằng nhau của một số, so sánh hai số gấp hoặc kém nhau bao nhiêu lần, giảm đi một số lần, tôi đều hình thành kiến thức mới cho các em từ những kiến thức đã học. Chẳng hạn như khi dạy bài "Gấp một số lên nhiều lần", tôi đã hình thành quy tắc từ kiến thức đã được học. Học sinh tự vẽ đoạn thẳng AB dài 2cm, tìm cách vẽ đoạn thẳng CD dài gấp 3 lần đoạn thẳng AB, tìm cách tính độ dài của đoạn thẳng CD. Từ những việc làm trên của học sinh, chính các em đã tự tìm ra cách gấp 2cm lên 3 lần, tự lấy được ví dụ về gấp một số nào đó lên một số lần rồi tìm ra quy tắc gấp một số lên nhiều lần. Sau mỗi dạng toán mà học sinh mới được học, tôi đều cho học sinh luyện tập củng cố kiến thức qua các bài luyện tập trong sách giáo khoa và trong các tiết dạy ở buổi hai. Ngoài ra, tôi còn cho học sinh củng cố mỗi dạng toán bằng những bài toán ngược để các em tránh bị nhầm lẫn. 7
  5. Một số biện pháp giúp học sinh lớp 3 giải toán bằng hai phép tính Cũng với cách làm như trên, tôi đã hướng dẫn học sinh đặt thêm cho bài toán câu hỏi: 1 Một cửa hàng có 40m vải xanh và đã bán được số vải đó. Hỏi: 5 a) Cửa hàng đã bán được mấy mét vải xanh? b) Cửa hàng còn lại bao nhiêu mét vải xanh? Hoặc khi củng cố dạng toán "Gấp một số lên nhiều lần" có bài tập: Con hái được 7 quả cam, mẹ hái được gấp 5 lần số cam của con. Hỏi mẹ hái được bao nhiêu quả cam? ( Bài tập 2 - Trang 33 - SGK Toán 3) Học sinh của tôi đã tự đặt thêm cho bài toán một câu hỏi nữa để bài toán có hai câu hỏi như sau: Con hái được 7 quả cam, mẹ hái được gấp 5 lần số cam của con. Hỏi: a) Mẹ hái được bao nhiêu quả cam? b) Cả hai mẹ con hái được bao nhiêu quả cam? Bằng cách hướng dẫn học sinh đặt thêm câu hỏi cho bài toán, ngoài việc củng cố kiến thức mới học, tôi đã hướng dẫn các em củng cố thêm được những kiến thức khác, đồng thời đã giúp học sinh phát huy tính sáng tạo, phát triển năng lực tư duy. Biện pháp này tôi thường tiến hành song song, đồng thời với biện pháp thứ nhất, tôi thấy hiệu quả rất rõ rệt, học sinh nắm chắc hơn các dạng toán đơn. Việc cho học sinh làm quen với những bài toán có hai câu hỏi như trên thực tế là tôi đã cho học sinh làm quen với những bài toán giải bằng hai phép tính. Đây chính là những bài toán làm bước chuẩn bị cho học sinh học giải toán bằng hai phép tính sau này. Nói tóm lại: Cả hai biện pháp tôi đã thực hiện như trên đều là những bước chuẩn bị cần thiết để hình thành và hướng dẫn học sinh tìm hướng giải cho những bài toán giải bằng hai phép tính. 3. Hướng dẫn học sinh hiểu thế nào là bài toán giải bằng hai phép tính Tôi đã tiến hành giúp học sinh hiểu về bài toán giải bằng hai phép tính qua các tiết dạy bài mới về "Bài toán giải bằng hai phép tính" (tiết 50 và tiết 51) 3.1.Bài "Bài toán giải bằng hai phép tính" (Tiết 50 - Trang 50-SGK Toán 3) Để học sinh hiểu thế nào là một bài toán giải bằng hai phép tính, tôi đã hướng dẫn học sinh tự hình thành bài toán và các bước giải trên cơ sở từ hai bài toán đơn đã học. Tiết dạy được mô tả như sau: 9
  6. Một số biện pháp giúp học sinh lớp 3 giải toán bằng hai phép tính Câu hỏi 2: Tìm số kèn ở hàng dưới, em đã làm như thế nào? Câu hỏi 3: Tìm số kèn có ở cả hai hàng em đã làm như thế nào? - GV kết hợp ghi: Tìm số cái kèn ở hàng dưới : ? cái 3 + 2 = 5 (cái kèn) Tìm số cái ken ở cả hai hàng: ? cái 3 + 5 : g (cái kèn) Như vậy, cùng với việc đặt các câu hỏi của GV, HS nêu ý kiến trả lời, tôi đã thiết lập cho HS việc đi tìm các bước giải của bài toán bằng sơ đồ phân tích đi lên. Từ sơ đồ phân tích đi lên ở trên, HS dựa vào đó có thể nhận ra các bước giải và phép tính giải bài toán. - Từ các bước giải của bài toán đã được thiết lập như trên, tôi giới thiệu cho HS biết đây là bài toán giải bằng hai phép tính và đặc điểm của bài toán giải bằng hai phép tính: chỉ có 1 đáp số là kết quả của phép tính thứ hai. Từ sơ đồ phân tích đi lên này, tôi gợi ý để HS nhận ra muốn giải được bài toán, cần đặt cho mình câu hỏi phụ: + Để tìm được đáp số của bài toán cần tìm thêm gì? (hoặc biết thêm gì?). + Để trả lời được câu hỏi mà mình vừa đặt ra cần vận dụng kiến thức nào đã học (dạng toán đơn nào đã học). Trả lời được câu hỏi này là bước giải thứ nhất của bài . + Để trả lời được câu hỏi của bài toán cần vận dụng kiến thức nào đã học (dạng toán đơn nào đã học). Đây là bước giải thứ hai của bài toán. Với mỗi phép tính trên, tôi đều yêu cầu HS diễn đạt câu lời giải mỗi phép tính bằng một vài cách khác nhau. c. Hướng dẫn HS vận dụng để giải bài toán tương tự - Tôi cho HS vận dụng các bước giải bài toán mới được lập từ các dữ kiện của bài toán 1 trong SGK để từ phân tích, thiết lập để tìm các nước giải của bài toán 2 trong SGK. d. Hướng dẫn HS luyện tập Nội dung luyện tập của tiết học này gồm 3 bài tập. Với bài tập 1 và bài tập 2, tôi đều cho HS phân tích đề bài, tự đặt câu hỏi phụ để tìm bước giải thứ nhất, tìm câu trả lời cho câu hỏi phụ mà mình tự đặt và câu hỏi của bài toán cần vận dụng những dạng toán nào đã học. Riêng bài tập số 3, với những HS chậm, tôi đưa thêm một số bài toán cho HS chọn bài toán thích hợp với tóm tắt đã cho. 11
  7. Một số biện pháp giúp học sinh lớp 3 giải toán bằng hai phép tính kết hợp với thiết lập sơ đồ phân tích đi lên, đưa bài toán thành hai bài toán đơn đã học để giải bài toán. Số xe đạp bán ngày thứ hai: ? xe 7 x 2 = 14 (xe đạp) Số xe đạp bán trong hai ngày: ? xe 7 + 14 = 21 (xe đạp) Cuối cùng, tôi yêu cầu học sinh xác định xem bài toán trên được giải bằng những phép tính nào, mỗi phép tính để giải bài toán liên quan đến những dạng toán đơn nào. c. Luyện tập Nội dung luyện tập trong tiết này cũng gồm 3 bài tập. Với các bài tập 1 và bài tập 2, tôi tổ chức cho học sinh tự tìm các bước giải và giải bài toán rồi xác định từng bước giải của mỗi bài toán thuộc dạng toán nào đã học. Còn bài tập số 3 chỉ là bài toán về số học nhằm giúp củng cố học sinh kiến thức về gấp một số lên nhiều lần, thêm một số đơn vị, bớt một số đơn vị, nhưng để giúp học sinh củng cố kiến thức về giải bài toán bằng hai phép tính, tôi đã đưa ra một số bài toán yêu cầu học sinh chọn bài toán phù hợp với sơ đồ có trong bài, nêu cách giải mỗi bài toán đó. Bài toán 1: Lan gấp được 6 cái thuyền, số thuyền của Nga gấp được gấp đôi số thuyền của Lan, Bình gấp được ít hơn Nga 2 cái thuyền. Hỏi Bình gấp được bao nhiêu cái thuyền? Bài toán 2: An có 56 viên bi. Sau khi chia cho các bạn, số bi của An bị giảm đi 7 lần. Tùng lại cho An thêm 7 viên bi nữa. Hỏi lúc này An có bao nhiêu viên bi? d. Củng cố Cuối tiết học, tôi yêu cầu HS nhắc lại các bài toán giải bằng hai phép tính đã học được giải bằng những phép tính nào, liên quan đến những dạng toán đơn nào đã học để khắc sâu kiến thức cho các em. Như vậy bằng phương pháp dạy học kiến tạo, bằng hệ thống câu hỏi gợi mở, tôi đã hướng dẫn HS vận dụng kiến thức đã học để hình thành bài toán giải bằng hai phép tính từ việc gộp bài toán có 2 lần đáp số, biết cách phân tích để tiện hướng giải của bài toán giải bằng hai phép tính là tìm ra mối quan hệ giữa các dữ kiện đã cho và dữ kiện cần tìm, đưa chúng về hai bài toán đơn đã học và vận dụng kiến thức đã học để giải quyết từng bài toán đơn đó. Nói tóm lại: Nếu học sinh lớp 3 không thấy được mối quan hệ giữa các dữ kiện trong bài toán thì việc tìm câu trả lời cho câu hỏi phụ sẽ rất khó khăn. Nếu 13
  8. Một số biện pháp giúp học sinh lớp 3 giải toán bằng hai phép tính - Bài toán về thêm 2 lần liên tiếp; - Bài toán về gộp 3 số hạng. 4.1.2. Bài toán giải bằng hai phép tính trừ Bao gồm những bài toán liên quan đến những dạng toán đơn đã học sau: - Bài toán về bớt 2 lần liên tiếp; - Bài toán về ít hơn - Bài toán về hơn, kém một số đơn vị. 4.1.3. Bài toán giải bằng phép tính nhân và phép tính trừ Bao gồm những bài toán liên quan đến những dạng toán đơn đã học sau: - Bài toán về gộp một số nhóm bằng nhau, bớt đi một số đơn vị; 4.1.4. Bài toán giải bằng phép tính trừ và phép tính chia Bao gồm những bài toán liên quan đến những dạng toán đơn đã học: Bài toán về bớt một số đơn vị, chia đều. 4.1.5. Bài toán giải bằng phép tính cộng và phép tính chia Bao gồm những bài toán liên quan đến những dạng toán đơn đã học: - Bài toán về gộp hai số, chia đều - Bài toán về nhiều hơn, so sánh số lớn gấp số bé bao nhiêu lần. 4.1.6. Bài toán giải bằng phép tính nhân và phép tính cộng Bao gồm những bài toán liên quan đến những dạng toán đơn đã học: - Bài toán về gộp một số nhóm bằng nhau, gộp hai số (một số là kết quả của gộp các nhóm đó) 4.1.7. Bài toán giải bằng hai phép tính chia Bao gồm những bài toán liên quan đến những dạng toán đơn đã học: Bài toán về chia đều, chia thành các phần bằng nhau. 4.1.8. Bài toán giải bằng phép tính nhân và phép tính chia Bao gồm những bài toán liên quan đến những dạng toán đơn đã học: Bài toán về gộp các nhóm bằng nhau, chia đều 4.1.9.Bài toán giải bằng phép tính chia và phép tính cộng Bao gồm những bài toán liên quan đến những dạng toán đơn đã học: Tìm một trong các phần bằng nhau của một số; gộp hai số. 4.2. Những bài toán điển hình Ngoài các dạng toán giải bằng hai phép tính ở lớp 3 được thống kê ở trên thì học sinh còn được học một số dạng toán sau: 4.2.1. Bài toán có phép chia có dư 15
  9. Một số biện pháp giúp học sinh lớp 3 giải toán bằng hai phép tính Các bài toán trong sách giáo khoa thường chỉ là những bài toán cho trước đề bài, yêu cầu học sinh giải bài toán, chỉ có vài bài đưa yêu cầu khác là nêu bài toán theo tóm tắt rồi giải. Các yêu cầu trên có lẽ chỉ phù hợp với đối tượng học sinh đại trà mà chưa phát huy được hết khả năng sáng tạo của học sinh. Chính vì vậy, tôi đã mạnh dạn đưa vào bài giảng của mình, nhất là các tiết dạy Toán ở buổi hai thêm một số yêu cầu về giải toán bằng hai phép tính như sau: 5.1.1. Lập đề toán theo mẫu Khi hướng dẫn học sinh giải một bài toán bằng hai phép tính xong, tôi yêu cầu các em lập bài toán tương tự nhằm mục đích kiểm tra mức độ hiểu bài của học sinh. 5.1.2. Tìm câu hỏi cho bài toán Để đặt ra được yêu cầu này đối với học sinh, tôi đã đưa ra một số dữ kiện đã cho của bài toán, yêu cầu học sinh tự đặt câu hỏi cho bài toán rồi giải bài toán. Chẳng hạn: Hãy đặt thêm câu hỏi để được bài toán giải bằng hai phép tính: Nam có 5 viên bi, Hùng có nhiều hơn Nam 15 viên bi. Hỏi Học sinh có thể đặt được các câu hỏi sau: Hỏi cả hai bạn có bao nhiêu viên bi? Hoặc: Hỏi số bi của Hùng gấp mấy lần số bi của Nam? Hoặc: Số bi của Nam bằng một phần mấy số bi của Hùng? Và với mỗi câu hỏi trên thì lại được một bài toán khác và cách giải cũng khác nhau. 5.1.3. Lập bài toán từ một số dữ kiện đã cho và dữ kiện cần tìm Với yêu cầu này, tôi chuẩn bị trước một số dữ kiện đã cho, một số câu hỏi, trong đó có thể có những câu hỏi hoặc những dữ kiện không phù hợp, yêu cầu học sinh chọn các dữ kiện đó và sắp xếp để được bài toán giải bằng hai phép tính và giải bài toán đó. Ví dụ: Hãy lập bài toán giải bằng hai phép tính và giải bài toán đó từ các dữ kiện sau: Một đoàn xe có 5 ô tô. Xe thứ hai chở gấp xe thứ nhất 3 lần. Mỗi xe còn lại chở được 1200 kg hàng. Xe đầu chở được 1500 kg hàng. Hỏi đoàn xe đó chở được bao nhiêu ki-lô-gam hàng? 17
  10. Một số biện pháp giúp học sinh lớp 3 giải toán bằng hai phép tính - Chuẩn bị: + Một bài toán hoặc một số bài toán, một số câu lời giải và phép tính viết liền nhau hoặc một số câu lời giải và một số phép tính viết tách rời nhau, có thể có cả câu lời giải, phép tính sai dưới hình thức các thẻ. + Chọn hai (hoặc ba, bốn, . nhóm) học sinh chơi, mỗi nhóm 4 - 5 em - Cách chơi: Từ một bài toán hoặc một số bài toán, một số câu lời giải, một số phép tính viết tách rời nhau mà GV đưa ra, yêu cầu HS tiếp nối chọn câu lời giải và phép tính thích hợp với cách giải của mỗi bài toán đó theo một khoảng thời gian do GV quy định. Nhóm nào nhanh nhất và đúng nhất thì thắng cuộc. Ví dụ: Tiết 52 Luyện tập (trang 52 - SGK Toán 3) Khi dạy học sinh giải bài tập 1 và bài tập 2, tôi đưa luôn cả hai bài toán, hướng dẫn HS tìm hiểu từng bài toán rồi đưa ra một số câu lời giải, phép tính, đáp số như sau: Tất cả số ô tô đã rời bến là: 18 + 17 = 35 (ô tô) Sau khi rời bến lần thứ nhất, bến xe còn lại số ô tô là: 45 - 18 = 27 (ô tô) Số con thỏ bác An đã bán đi là: 48 : 6 = 8 (con thỏ) Bến xe đó còn lại số Ô tô là: 45 - 35 = 10 (ô tô) Bác An còn lại số con thỏ là: 48 - 8 = 40 (con thỏ) Số ô tô còn lại trong bến xe là: 27 - 17 = 10 (ô tô) Sau khi tổ chức cho học sinh chơi trò chơi, tôi hướng dẫn HS nhận xét, chốt lại dạng toán, cách giải từng bài toán. Như vậy, bằng cách tổ chức này, tôi vừa củng cố được cách giải bài toán bằng hai phép tính, vừa tạo được cho HS cách học một tiết luyện tập toán thoải mái, không gò bó là phải theo các bước tìm hiểu đề bài, đặt câu hỏi phụ tìm cách giải rồi giải bài toán mà vẫn đòi hỏi học sinh phải tập trung suy nghĩ để chọn lựa chính xác. 5.2.2. Trò chơi “Chuyển thư” hoặc “Tìm đúng địa chỉ” 19