Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp học sinh đọc diễn cảm ở Lớp 3
Trong nhà trường tiểu học ở Việt Nam đã coi Tiếng Việt là một môn học trung tâm, làm nền móng các môn học khác. Tiếng Việt ở tiểu học gồm nhiều phân môn: Tập đọc, Kể chuyện, Luyện từ và câu, Tập làm văn, Chính tả, Tập viết. Mỗi phân môn đều có một chức năng khi dạy ngữ văn ở nhà trường đồng thời cũng chuẩn bị vốn cho học sinh khi học văn.
Tập đọc là một phân môn quan trọng, có ý nghĩa to lớn trong chương trình môn Tiếng Việt ở Tiểu học. Đọc để giúp trẻ chiếm lĩnh được ngôn ngữ dùng trong giao tiếp của học tập. Nó là công cụ của các em học tập tốt các môn học khác. Môn Tập đọc rèn cho học sinh kĩ năng đọc ngày càng thành thạo, trau đồi vốn Tiếng Việt, vốn văn học, mở rộng sự hiểu biết trong cuộc sống, giáo dục mỹ cảm, bồi dưỡng tư tưởng tình cảm, tâm hồn cho học sinh, làm cho học sinh yêu Tiếng Việt, yêu cái đẹp. Phân môn tập đọc ở tiểu học nói chung và ở lớp 3 nói riêng đặt ra một nhiệm vụ quan trọng. Trong các giờ Tập đọc, học thuộc lòng, Học sinh biết đọc diễn cảm bài văn, bài thơ đã tạo cho các em sự say mê hứng thú và để lại một vốn văn học đáng kể cho trẻ.
Kỹ năng đọc có nhiều mức độ: đọc đúng, đọc nhanh (lưu loát, trôi chảy), đọc có ý thức (thông hiểu được nội dung những điều mình đọc hay còn gọi là đọc hiểu) và đọc diễn cảm. Mỗi phân môn đều có một chức năng khi dạy ngữ văn ở nhà trường đồng thời cũng chuẩn bị vốn cho học sinh khi học văn. Khi học sinh đọc tốt viết tốt thì các em mới có thể tiếp thu các môn học khác một cách chắc chắn. Từ đó học sinh mới hoàn thành được năng lực giao tiếp của mình. Những kỹ năng này không phải tự nhiên mà có. Thế nhưng hiện nay, ở trường tiểu học, mặt âm thanh của ngôn ngữ, đặc biệt ngữ điệu chưa được chú ý đúng mức. Đó là một trong những lý do cho học sinh của chúng ta đọc và nói chưa tốt. Đó cũng là ý do khiến cho trong nhiều trường hợp, học sinh không hiểu đúng văn bản được đọc. Môn tập đọc ở tiểu học nói chung và ở lớp 3 nói riêng đặt ra một nhiệm vụ quan trọng. Trong các giờ tập đọc, học sinh biết đọc diễn cảm bài văn, bài thơ sẽ tạo cho các em sự say mê hứng thú và giúp các em có khả năng cảm thụ. Cũng thông qua các bài văn, học sinh học được hiểu thêm về các vùng miền của đất nước,
File đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_giup_hoc_sinh_doc_die.doc
Nội dung text: Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp học sinh đọc diễn cảm ở Lớp 3
- nhận thức đầy đủ tầm quan trọng, yêu cầu của bộ môn, đặc biệt về nội dung và phương pháp rèn kĩ năng đọc diễn cảm để đáp ứng với yêu cầu đề ra. Trong giảng dạy môn tập đọc, qua nhiều năm gần đây, tôi đã tích cực nghiên cứu, học hỏi kinh nghiệm giảng dạy, cách truyền thụ kiến thức, đặc biệt là việc rèn luyện kĩ năng đọc diễn cảm cho học sinh. Muốn rèn cho học sinh đọc diễn cảm tốt, trước hết trong các giờ tập đọc giáo viên cần hướng dẫn học sinh cách phát âm chuẩn, đọc đúng, trôi chảy, sau đó mới yêu cầu học sinh đọc diễn cảm. Trong phương pháp dạy học những yêu cầu đó gọi là chất lượng đọc được thể hiện đồng thời và chi phối lẫn nhau. Tính đúng đắn sẽ nâng cao tốc độ đọc và cho phép đọc có ý thức hơn. Nếu không hiểu nội dung đọc thì không thể đọc lưu loát và diễn cảm được. Đọc diễn cảm thể hiện ở kĩ năng dùng ngữ điệu, biết nghỉ hơi ở dấu chấm, ngắt hơi ở dấu phẩy hoặc chỗ cần tách ý, biết đọc liền các tiếng trong từ ghép, từ láy hoặc cụm từ cố định. Ngoài ra, cần biết đọc đúng giọng câu kể, câu hỏi, biết phân biệt giọng người dẫn chuyện với từng tuyến nhân vật có tính cách khác nhau. Đọc diễn cảm là biểu hiện cao của đọc có ý thức và chỉ thực hiện đựơc trên cơ sở đọc đúng và đọc nhanh. Do vậy dù đọc ở mức độ nào cũng phải yêu cầu phát âm đúng song cũng không nên qua nhấn mạnh ở các phụ âm: tr – ch; r – gi; s – x làm giọng đọc mất tự nhiên. Để đạt được những yêu cầu trên tôi đã tiến hành phương pháp rèn đọc diễn cảm cho học sinh như sau: a. Chuẩn bị cho việc đọc Trước khi nói về việc rèn đọc đúng, cần nói về tiêu chí cường độ và tư thế khi đọc, tức là rèn đọc to, đọc đàng hoàng. Giáo viên hướng dẫn học sinh chuẩn bị tâm thế để đọc. Khi ngồi đọc cần phải ngồi ngay ngắn, khoảng cách từ mắt đến sách nên nằm trong khoảng 30-35 cm, cổ và đầu thẳng, phải thở sâu và thở ra chậm để lấy hơi. Ở lớp, khi được cô giáo gọi đọc, học sinh phải bình tĩnh, tự tin, không hấp tấp đọc ngay.Trong hoạt động giao tiếp, khi đọc thành tiếng, người đọc một lúc đóng hai vai: một vai - và mặt này thường được nhấn mạnh - là người tiếp nhận thông tin bằng chữ viết; vai thứ hai là người trung gian để truyền thông tin đưa văn bản viết đến người nghe. Khi giữ vai thứ hai này, người đọc đã thực hiện việc tái văn bản. Vì vậy, khi đọc thành tiếng, người đọc có thể đọc cho mình hoặc cho người khác hoặc cho cả hai. Đọc cùng với phát biểu trong lớp là hai hình thức giao tiếp trước đám đông đầu tiên của trẻ em nên giáo viên phải coi trọng khâu chuẩn bị để đảm bảo sự thành công, tạo cho các em sự tự tin cần thiết. Khi đọc thành tiếng, các em phải tính đến người nghe. b. Giáo viên đọc mẫu: Trong quá trình rèn đọc cho học sinh, việc đọc mẫu của giáo viên có tác dụng rất lớn. Giáo viên có thể đọc mẫu từ, cụm từ, câu, đoạn hoặc cả bài. Mỗi lần đọc mẫu có một mục đích nhất định. 6
- mối) cho học sinh tiếp xúc với tác phẩm, sau khi luyện đọc từ, câu khó có trong đoạn xong giáo viên mới hướng dẫn luyện đọc đoạn, giáo viên cần nêu cách cụ thể về đọc như: Nhấn giọng, kéo dài giọng ở từ ngữ nào, đọc cao hạ thấp từ nào , nhanh, chậm, vui, buồn. Tóm lại giáo viên cần phải rèn cho học sinh đóc có ngữ điệu, giọng điệu phải phù hợp với từng loại câu (kể, hỏi, cảm, cầu khiến). Giáo viên hướng dẫn đọc một cách cụ thể, rõ ràng, tránh hướng dẫn chung chung như phần hướng dẫn đọc ở SGK. Đối với các bài thơ để rèn học sinh đọc diễn cảm, giáo viên phải biết khai thác những nét đặc trưng của thơ: Dòng thơ, nhịp thơ, vần thơ, thể thơ. Cần hướng dẫn kỹ về cách ngắt nhịp, cách ngắt nghỉ hơi ở cuối mỗi dòng thơ, cách đọc những tiếng cùng vần với nhau sao cho phù hợp với thể thơ, nội dung của từng khổ thơ, đoạn thơ. g. Rèn đọc lại: Rèn đọc lại nghĩa là tùy theo bài mà yêu cầu đọc lại đoạn hoặc bài văn, bài thơ. Sau khi tìm hiểu nội dung bài. Giáo viên nêu lại cách đọc toàn bài và đọc mẫu một đoạn nữa, rồi mới gọi học sinh luyện đọc diễn cảm từng đoạn và cả bài, đồng thanh. Tuy nhiên để phát huy tính tích cực chủ động của học sinh, trong khi học sinh luyện đọc (diễn cảm) xong gọi học sinh khác nhận xét chỗ nào được, chỗ nào chưa được cần khắc phục, để từ đó rút kinh nghiệm chung cho cả lớp. Các em có thể đọc diễn cảm theo cách sáng tạo của riêng mình. Mỗi em có một cách đọc khác nhau, không nhất thiết phải đọc đúng theo sự hướng dẫn của giáo viên nhưng cách đọc phải phù hợp với nội dung bài. * Biện pháp 2 Rèn đọc diễn cảm: Sau khi nhận lớp, tôi đã cho lớp ổn định chung về cách tổ chức lớp. Qua tìm hiểu điều tra để nắm chắc đối tượng học sinh về lựa chọn, đặc biệt là về kĩ năng đọc và phân loại học sinh theo ba đối tượng: - Đối tượng 1: Học sinh biết đọc diễn cảm. (10 học sinh) - Đối tượng 2: Học sinh mới chỉ biết đọc to, rõ, lưu loát.(22 học sinh) - Đối tượng 3: Học sinh đọc nhỏ, lý nhí, ấp úng, ngọng.(16 học sinh) Dựa vào đó, tôi đã sắp xếp chỗ cho học sinh theo hướng: những em đọc chưa tốt ngồi cạnh những em đọc tốt để xây dựng đôi bạn cùng tiến. Tôi tiến hành công việc tiếp theo là giới thiệu cấu tạo chương trình môn tập đọc để các em nắm được các chủ đề chính trong từng học kì và cả năm học. Đồng thời nêu tầm quan trọng, yêu cầu cơ bản về việc rèn luyện kỹ năng đọc diễn cảm giúp các em cảm thụ bài văn, bài thơ của từng chủ đề. Hướng dẫn mỗi em đóng một quyển sổ để ghi những câu, những đoạn, bài văn, bài thơ hay có giá trị về nội dung và nghệ thuật. Sau khi thực hiện các nội dung trên, tôi tiến hành giảng dạy như sau: 8