Sáng kiến kinh nghiệm Kinh nghiệm dạy các bài toán về chuyển động đều cho học sinh Lớp 5

 Toán học có vị trí rất quan trọng trong cuộc sống thực tiễn. Đó cũng là công cụ cần thiết cho các môn học khác và để giúp cho học sinh nhận thức thế giới xung quanh, hoạt động có hiệu quả trong mọi lĩnh vực.

Khả năng giáo dục nhiều mặt của môn toán rất to lớn: Nó phát triển tư duy, trí tuệ, có vai trò quan trọng trong việc rèn luyện tính suy luận, tính khoa học toàn diện, chính xác,  tư duy độc lập sáng tạo, linh hoạt, góp phần giáo dục tính nhẫn nại, ý chí vượt khó khăn.

Từ vị trí và nhiệm vụ vô cùng quan trọng của môn toán, vấn đề đặt ra cho người thầy là làm thế nào để giờ dạy – học toán có hiệu quả cao, học sinh phát triển tính tích cực, chủ động sáng tạo trong việc chiếm lĩnh kiến thức toán học. Theo tôi, các phương pháp dạy học bao giờ cũng phải xuất phát từ vị trí, mục đích và nhiệm vụ, mục tiêu giáo dục của bài học môn toán. Nó không phải là cách thức truyền thụ kiến thức, cách giải toán đơn thuần mà là phương tiện tinh vi để tổ chức hoạt động nhận thức tích cực, độc lập và giáo dục phong cách làm việc một cách khoa học, hiệu quả.

Hiện nay, giáo dục tiểu học đang thực hiện yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh, làm cho hoạt động dạy học trên lớp “nhẹ nhàng, tự nhiên, hiệu quả”. Để đạt được yêu cầu đó, giáo viên phải có phương pháp và hình thức dạy học để vừa nâng cao hiệu quả cho học sinh, vừa phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý của lứa tuổi tiểu học và trình độ nhận thức của học sinh,  để đáp ứng với công cuộc đổi mới của đất nước nói chung và của ngành giáo dục tiểu học nói riêng.

doc 30 trang Đào Bích 22/12/2023 3960
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Kinh nghiệm dạy các bài toán về chuyển động đều cho học sinh Lớp 5", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_kinh_nghiem_day_cac_bai_toan_ve_chuyen.doc

Nội dung text: Sáng kiến kinh nghiệm Kinh nghiệm dạy các bài toán về chuyển động đều cho học sinh Lớp 5

  1. “Kinh nghiệm dạy các bài toán về chuyển động đều cho học sinh lớp 5” Khi gặp bài toán nâng cao học sinh rất dễ mắc sai lầm. Trí nhớ của các em không đủ để giải quyết các mâu thuẩn trong bài toán. Tuy nhiên, học sinh lớp 5 đã biết phối hợp sử dụng tất cả các giác quan để ghi nhớ một cách tổng hợp. Bước đầu có nhiều biện pháp ghi nhớ tốt hơn các tài liệu hoặc kiến thức đã học. 4. Đặc điểm về tưởng tượng của học sinh tiểu học Học sinh tiểu học nói chung và học sinh lớp 5 nói riêng còn rất bỡ ngỡ trước một số thao tác tư duy như : so sánh, phân tích, suy luận Khả năng khái quát thấp, nếu có thì chỉ có thể dựa vào dấu hiệu bên ngoài. Đối với bài toán chuyển động đều, nó đòi hỏi ở học sinh sự linh hoạt và khả năng suy luận, diễn dịch tốt. Loại toán này không giải bằng công thức đã có sẵn mà các em còn phải biết phân tích, suy luận, diễn giải từ những dữ kiện của bài toán, để từ đó vận dụng những kiến thức đã có sẵn, tháo gỡ mâu thuẩn và các tình huống đặt ra trong bài toán. 5. Đặc điểm ngôn ngữ của học sinh lớp 5 Ngôn ngữ của học sinh lớp 5 đã phát triển mạnh mẽ về ngữ âm, ngữ pháp và từ ngữ. Riêng học sinh lớp 5 đã nắm được một số quy tắc ngữ pháp cơ bản. Tuy nhiên, khi giải toán do bị chi phối bởi các dữ kiện, giả thiết nên trình bày bài giải thường mắc sai lầm như : sai ngữ pháp, chưa rõ ý, lủng củng. Có em chưa hiểu từ dẫn đến hiểu sai đề và làm lạc đề. II. Đặc điểm của các bài toán chuyển động đều Toán chuyển động đều là dạng toán có liên quan và ứng dụng trong thực tế, học sinh phải tư duy, phải có óc suy diễn và phải có đôi chút hiểu biết về thực tế cuộc sống. Toán chuyển động luôn bao gồm: Vật chuyển động, thời gian, vận tốc, quãng đường. Là dạng toán dùng câu văn. Nằm trong xu thế đó, toán chuyển động đều không chỉ giúp học sinh đào sâu, củng cố kiến thức cơ bản về loại toán này mà nó còn cũng cố nhiều kiến thức, kỹ năng cơ bản khác như kiến thức đại lượng tỉ lệ thuận và đại 5
  2. “Kinh nghiệm dạy các bài toán về chuyển động đều cho học sinh lớp 5” đều nói riêng góp phần không nhỏ vào việc phát triển và hình thành nhân cách toàn diện cho học sinh. III. Một số nội dung, phương pháp dạy giải toán chuyển động đều 1. Bài toán chuyển động đều Bài toán được khéo léo đưa ra và giới thiệu với học sinh lớp 4 dưới dạng các bài toán về đại lượng tỉ lệ thuận và đại lượng tỉ lệ nghịch. Qua đó học sinh bước đầu nắm được mối quan hệ giữa các đại lượng trong toán chuyển động đều. Hệ thống bài toán chỉ là những ví dụ đơn giản. Sang lớp 5, toán chuyển động đều mới chính thức thể hiện vị trí của mình, là bộ phận của chương trình toán tiểu học, tuy nhiên với kiến thức cơ bản và sơ đẳng nhất. Ba đại lượng : quãng đường, thời gian, vận tốc được sách giáo khoa chia nhỏ trong chương trình và giới thiệu riêng từng đại lượng. * Phân loại toán chuyển động đều Toán chuyển động đều được phân loại dựa vào quan điểm nâng cao, đi từ đơn giản đến phức tạp, thể hiện như sau : a) Loại đơn giản (Giải trực tiếp bằng công thức cơ bản, dành cho các tiết dạy học bài mới.) Dạng 1: Tính vận tốc của một chuyển động. - Có quãng đường ,thời gian . Tính vận tốc. - Cách làm: lấy quãng đường chia cho thời gian. - Công thức : v = s : t Lưu ý : Đơn vị vận tốc km/giờ, m/phút, m/giây. Dạng 2: Tìm quãng đường. - Có vận tốc , thời gian . tính quãng đường. - Cách làm : lấy vận tốc nhân với thời gian. - Công thức: s = v x t - Lưu ý :Đơn vị quãng đường là : km, m. Dạng 3: Tìm thời gian. - Có quãng đường và vận tốc. Tính thời gian. - Cách làm: lấy quãng đường chia vận tốc. 7
  3. “Kinh nghiệm dạy các bài toán về chuyển động đều cho học sinh lớp 5” - Với loại toán này thường có 3 đại lượng chính là Thể tích của nước ta coi tương tự như tính với quãng đường S; Thể tích này thường tính theo lít hoặc m3 hay dm3; Lưu lượng nước vận dụng công thức tính tương tự như với vận tốc V; Đại lượng này thường tính theo đơn vị lít/phút hoặc lít/ giây hay lít/giờ. Thời gian chảy của vòi nước vận dụng tính tương tự như thời gian trong toán chuyển động đều. Cách giải loại toán này ta phải áp dụng các công thức sau: - Thể tích = Lưu lượng x Thời gian; Thời gian = Thể tích : Lưu lượng; Lưu lượng = Thể tích : Thời gian. 2. Những yêu cầu của việc dạy giải các bài toán chuyển động đều Sau khi học xong phần phương pháp giải các bài toán chuyển động đều, yêu cầu đạt được ở mỗi học sinh như sau : - Biết thực hiện đúng các bước đi của quy trình giải các bài toán nói chung và giải các bài toán chuyển động đều nói riêng, đặc biệt là bước tìm hiểu đề, phân tích, lập kế hoạch giải. - Biết sử dụng một số phương pháp điển hình để giải toán như : phương pháp khử, giả thiết tạm, sơ đồ đoạn thẳng, suy luận - Xét riêng về bài toán chuyển động đều, học sinh cần đạt được những yêu cầu có tính đặc trưng sau : + Học sinh trung bình phải thuộc từng dạng toán và nắm được cách giải từng dạng toán đó ở dạng tường minh nhất. + Học sinh khá, giỏi đòi hỏi phải nắm thành thục các thao tác, từ đó vận dụng một cách linh hoạt các phương pháp giải và giải được các bài toán phức tạp. 3. Những chú ý về phương pháp khi dạy giải các bài toán chuyển động đều Căn cứ vào nội dung bài toán chuyển động đều ở chương trình tiểu học, ta thấy việc dạy giải các bài toán này cần chú ý những điểm sau : 9
  4. “Kinh nghiệm dạy các bài toán về chuyển động đều cho học sinh lớp 5” Câu hỏi 1: Cô (thầy) chia các bài toán chuyển động đều về những dạng nào ? Dựa vào đâu để chia như vậy ? Trả lời: Chia làm 2 loại, loại đơn giản có 1 động tử chuyển động, loại nâng cao có 2 động tử hay nhiều động tử. Câu hỏi 2: Khi giải bài toán chuyển động đều, học sinh thường mắc những sai lầm gì ? Trả lời: Không biết cách trình bày lời giải, đôi khi tính toán sai, vận dụng công thức lẫn lộn, kỹ năng giải bài toán nâng cao yếu. Câu hỏi 3: Để dạy tốt dạng toán về chuyển động đều, ta cần lưu ý gì về phương pháp ? Trả lời: Phải tăng cường số lượng, chất lượng các bài tập; các bài tập đó phải có hệ thống, được phân loại rõ ràng. Phải nghiên cứu và cung cấp cho học sinh một số phương pháp giải thích hợp. 2. Nội dung và kết quả khảo sát ở học sinh * Tìm hiểu chất lượng giải các bài toán chuyển động đều ở học sinh. Tôi đã tiến hành kiểm tra vở của học sinh lớp 5ENội. Việc kiểm tra vở học sinh được tiến hành sau khi các em học xong phần lý thuyết toán chuyển động đều và một số tiết luyện tập. - Số lượng bài: 3 bài ( Bài 3 trang 171; Bài 2 trang 172; Bài 4 trang 174) - Số lượng học sinh được kiểm tra : 48 em. Kết quả như sau: Số học sinh Sĩ số Hoàn thành tốt Chưa hoàn thành Hoàn thành 48 15 = 32 % 23 = 48 % 10 = 20 % Như vậy, nhìn chung chất lượng về dạy giải toán chuyển động đều ở lớp 5E đã đạt yêu cầu. Tuy nhiên các bài toán trên hầu hết là những bài toán đơn giản. Một số bài toán có tính chất nâng cao, học sinh làm không trọn vẹn. Điều đó phản ánh phần nào việc dạy và học còn chưa tận dụng triệt để những khả năng sẵn có trong học sinh. Có một điều đáng chú ý là kết quả trên đây tuy đạt yêu cầu nhưng lại 11
  5. “Kinh nghiệm dạy các bài toán về chuyển động đều cho học sinh lớp 5” b) Khi giải bài toán học sinh còn nặng về trí nhớ máy móc, tư duy chưa linh hoạt. Ví dụ: Bài 1trang 144 (SGK toán 5): Quãng đường AB dài 180Km. Một ô tô đi từ A đến B với vận tốc 54Km/giờ, cùng lúc đó một xe máy di từ B đến Avới vận tốc 36Km/giờ. Hỏi kể từ lúc bắt đầu đi, sau mấy giờ ô tô gặp xe máy? Khi gặp bài toán trên học sinh rất lúng túng, không biết vận dụng công thức gì để tính. Tôi tiến hành kiểm tra trên lớp 5.1 chỉ có một số ít em làm được bài toán theo cách giải sau: Cứ sau mỗi giờ ô tô và xe máy đi được số km là: 54 + 36 = 90 (km) Thời gian để ô tô và xe máy gặp nhau là: 180 : 90 = 2 (giờ) Đáp số: 2 giờ Một số học sinh khác do quen cách tính chỉ có một động tử nên không viết được trọn vẹn lời giải. Một số học sinh lại do nhầm lẫn giữa chuyển động ngược chiều và chuyển động cùng chiều nên áp dụng sai công thức, dẫn đến giải sai bài toán. c) Học sinh không nắm vững kiến thức cơ bản. Ví dụ: Một xe máy đi từ A đến B hết 42 phút. Tính quãng đường AB, biết vận tốc của xe máy là 36 km/giờ. Tôi tiến hành khảo sát trên lớp 5.1, đây là bài toán cơ bản nhưng có rất nhiều em giải sai một cách trầm trọng như sau: Quãng đường AB là: 36 x 42 = 1512 (km) Đáp số : 1525 km Với bài toán trên học sinh rất dễ lúng túng khi thấy đơn vị đo vận tốc của xe máy là km/giờ, mà thời gian xe máy đi hết quãng đường lại đo bằng đơn vị (phút). Nên trong quá trình giải các em đã không đổi đơn vị đo mà cứ để nguyên dữ kiện của bài toán như vậy lắp vào công thức s = v x t để tính. Đây là một 13
  6. “Kinh nghiệm dạy các bài toán về chuyển động đều cho học sinh lớp 5” Bài toán đặt ra là: Cho biết một số trong các yếu tố hay mối liên hệ nào đó trong chuyển động đều. Tìm các yếu tố còn lại. Vì vậy, mục đích của việc dạy giải toán chuyển động đều là giúp học sinh tự tìm hiểu được mối quan hệ giữa đại lượng đã cho và đại lượng phải tìm, mô tả quan hệ đó bằng cấu trúc phép tính cụ thể, thực hiện phép tính, trình bày lời giải bài toán. Để thực hiện mục đích trên, giáo viên cần thực hiện các yêu cầu sau: - Tự giải bài toán bằng nhiều cách (nếu có). - Dự kiến những khó khăn, sai lầm của học sinh. - Tổ chức cho học sinh hoạt động nắm vững các khái niệm, thuật ngữ và thực hiện các bước giải bài toán chuyển động đều. - Rèn luyện cho học sinh khá, giỏi năng lực khái quát hoá giải toán. * Khâu giải toán: Là khâu quan trọng trong quá trình chuẩn bị dạy giải bài toán của người giáo viên. Chỉ thông qua giải toán, giáo viên mới có thể dự kiến được những khó khăn sai lầm mà học sinh thường mắc phải, và khi giải bài toán bằng nhiều cách giáo viên sẽ bao quát được tất cả hướng giải của học sinh. Đồng thời hướng dẫn các em giải theo nhiều cách để kích thích lòng say mê học toán ở trẻ. * Dự kiến khó khăn sai lầm của học sinh: Đây là công việc không thể thiếu được trong quá trình dạy giải toán. Từ dự kiến những sai lầm của học sinh, giáo viên đặt ra phương án tốt giải quyết cho từng bài toán. Một số khó khăn, sai lầm học sinh thường mắc phải khi giải loại toán này là: - Tính toán sai - Viết sai đơn vị đo - Nhầm lẫn giữa thời gian và thời điểm - Vận dụng sai công thức - Học sinh lúng túng khi đưa bài toán chuyển động ngược chiều (hoặc cùng chiều) lệch thời điểm xuất phát về dạng toán chuyển động ngược chiều (hoặc cùng chiều) cùng thời điểm xuất phát. 15
  7. “Kinh nghiệm dạy các bài toán về chuyển động đều cho học sinh lớp 5” Bài toán 1: Cho biết vận tốc và thời gian chuyển động, tìm quãng đường. Công thức giải: Quãng đường = vận tốc x thời gian. Bài toán 2: Cho biết quãng đường và thời gian chuyển động, tìm vận tốc. Công thức giải: Vận tốc = quãng đường : thời gian Bài toán 3: Cho biết vận tốc và quãng đường, tìm thời gian. Công thức giải: Thời gian = quãng đường : vận tốc. * Chú ý: Phải chọn đơn vị đo thích hợp trong các công thức tính. Chẳng hạn nếu quãng đường chọn đo bằng km, thời gian đo bằng giờ thì vận tốc phải đo bằng km/h. Nếu thiếu chú ý điều này học sinh sẽ gặp khó khăn và sai lầm trong tính toán. b) Ví dụ minh hoạ: Một ô tô đi từ A lúc 6 giờ 20 phút và đến B lúc 11 giờ 20 phút. Biết quãng đường AB dài 120 km, hãy tính vận tốc của ô tô. * Dự kiến sai lầm của học sinh. - Tính toán sai. - Viết sai đơn vị đo. * Tổ chức cho học sinh thực hiện các bước giải. - Cho học sinh đọc bài toán (đọc to, đọc bằng mắt). - Xác định dữ kiện đã cho và dữ kiện phải tìm. + Bài toán cho biết gì ? (quãng đường AB dài 120 km, đi từ A lúc 6 giờ 20 phút, đến B lúc 11 giờ 20 phút). + Bài toán yếu cầu tìm cái gì ? (tìm vận tốc). - Cho học sinh xác định dạng của bài toán: bài toán thuộc dạng biết thời gian và quãng đường, tìm vận tốc. - Tóm tắt bài toán: Giáo viên làm mẫu và hướng dẫn học sinh tóm tắt, các bài tập kế tiếp giáo viên chỉ định hướng, kiểm tra việc tóm tắt của học sinh 120 km 6 giờ 20 phút 11 giờ 20 phút A B v = ? 17
  8. “Kinh nghiệm dạy các bài toán về chuyển động đều cho học sinh lớp 5” Công thức giải: Chuyển về bài toán 1, coi đó là chuyển động ngược chiều khởi hành cùng lúc với động tử thứ hai. Bài toán 3: (chuyển động cùng chiều, cùng lúc, đuổi nhau) Hai động tử cách nhau quãng đường s, khởi hành cùng lúc với vận tốc tương ứng là v1 và v2 đi cùng chiều, đuổi theo nhau. Tìm thời gian đi để đuổi kịp nhau và vị trí gặp nhau? Công thức giải: Thời gian đi để gặp nhau là: t = s : (v2 - v1) ; (v2 > v1) Quãng đường đến chỗ gặp nhau là: s1 = v1 x t ; s2 = v2 x t Bài toán 4: ( Chuyển động cùng chiều, không cùng lúc, đuổi nhau) Hai động tử xuất phát cùng chỗ, động tử khởi hành trước với vận tốc v1, động tử khởi hành sau với vận tốc v2, đuổi theo để gặp nhau. Tìm thời gian đi để đuổi kịp nhau và vị trí gặp nhau? Công thức giải: Chuyển về bài toán 3, coi đó là chuyển động cùng chiều khởi hành cùng lúcvới động tử thứ hai. * Để giúp học sinh nhớ công thức tính thời gian để hai động tử gặp nhau (trong bài toán 1 và bài toán 2): t = s : (v1 + v2) Ta có câu thơ: " Dẫu có xa xôi chẳng ngại chi, Tôi - Bạn hai kẻ ngược chiều đi, Vận tốc đôi bên tìm tổng số, Đường dài chia tổng chẳng khó gì !" - Để giúp học sinh nhớ công thức tính thời gian để động tử thứ 2 đuổi kịp động tử thứ nhất (bài toán 3 và bài toán 4): t = s : (v2 - v1) ; (v2 > v1) Ta có câu thơ sau: " Trên đường kẻ trước với người sau, Hai kẻ cùng chiều muốn gặp nhau, Vận tốc đôi bên tìm hiệu số, Đường dài chia hiệu khó chi đâu !" 19
  9. “Kinh nghiệm dạy các bài toán về chuyển động đều cho học sinh lớp 5” + Để biết được 2 xe gặp nhau sau mấy giờ trước tiên ta cần biết gì ? (mỗi giờ cả 2 xe đi được bao nhiêu km (tức là tổng vận tốc của 2 xe)) + Việc tính tổng vận tốc của 2 xe được thực hiện như thế nào ? (40 + 12 = 52 (km/h) Như vậy ta có bài toán: Cả 2 xe: đi 52 km hết 1 giờ đi 130 km hết giờ? Đây là phép so sánh tỉ lệ thuận giữa thời gian và quãng đường. + Vậy việc tính thời gian 2 xe gặp nhau được thực hiện như thế nào ? (130 : 52 = 2,5 (giờ)) + Khoảng cách từ chỗ gặp nhau đến A được tính như thế nào ? (40 x 2,5 = 100 (km)) - Trình bày lời giải: Mỗi giờ cả 2 xe đi được là: 40 + 12 = 52 (km) (hoặc: tổng vận tốc của 2 xe là: 40 + 12 = 52 (km/h)) Thời gian để 2 xe gặp nhau là: 130 : 52 = 2,5 (giờ) Chỗ gặp nhau cách A là: 40 x 2,5 = 100 (km) Đáp số: 2,5 giờ; 100 km * Khái quát hoá cách giải: giáo viên tổ chức, hướng dẫn để học sinh nêu lên được công thức chung để giải bài toán (đã nêu ở mục II, dạng 2 - bài toán 1) * Đề xuất bài toán mới: Lúc 6 giờ sáng, một người đi xe đạp xuất phát từ A đến B với vận tốc 15 km/h. Đến 8 giờ một người đi từ B đến A với vận tốc 18km/h. Hỏi hai người gặp nhau lúc mấy giờ ? Biết quãng đường AB dài 129 km. Ví dụ 2. Lúc 6 giờ sáng một người đi xe máy lên tỉnh họp với vận tốc 40 km/h. Đến 7 giờ một người đi ô tô đuổi theo với vận tốc 60 km/h. Tìm thời điểm để hai người gặp nhau. * Dự kiến khó khăn sai lầm: - Học sinh không tính được quãng đường xe máy đi được khi xe ô tô xuất phát. - Học sinh nhầm lẫn giữa thời gian và thời điểm - Không vận dụng chính xác công thức: t = s : (v2 - v1) ; (v2 > v1) 21
  10. “Kinh nghiệm dạy các bài toán về chuyển động đều cho học sinh lớp 5” (40 x (7 - 6 ) = 40 (km)). + Hiệu vận tốc của 2 xe được tính như thế nào ? (60 - 40 = 20 (km/h)) + Thời gian đi để hai xe gặp nhau được tính như thế nào? (40 : 20 = 2 (giờ) ) + Làm thế nào để tính được thời gian hai xe gặp nhau? (7 + 2 = 9 (giờ)) - Trình bầy lời giải Khoảng cách giữa hai người khi ôtô xuất phát là: 40 x (7 - 6 ) = 40 (km) Cứ mỗi giờ hai người gần nhau thêm là: 60 - 40 = 20 (km) Thời gian đi để hai người gặp nhau là: 40 : 20 = 2 (giờ) Thời điểm hai người gặp nhau là: 7 + 2 = 9 (giờ) Đáp số: 9 (giờ) * Khái quát hoá cách giải: GV tổ chức hướng dẫn để học sinh nêu lên được công thức chung để giải bài toán (Đã được nêu ở mục II, dạng 2-bài toán 4) * Đề xuất bài toán mới Một người đi xe đạp từ A với vận tốc 15 km/h. Đi được hai giờ thì một người đi xe máy bắt đầu đi từ A đuổi theo với vận tốc 35 km/h. Hỏi người đI xe máy đi trong bao lâu thì đuổi kịp người đi xe đạp ? Nơi gặp nhau cách A bao nhiêu km? 23
  11. “Kinh nghiệm dạy các bài toán về chuyển động đều cho học sinh lớp 5” Ph­¬ng ph¸p, h×nh thøc tæ chøc Thêi Néi dung kiÕn thøc §å c¸c ho¹t ®éng d¹y häc gian vµ kü n¨ng c¬ b¶n dïng Ho¹t ®éng cña thÇy Ho¹t ®éng cña trß Xe máy Xe đạp A B C 48k * Ch÷a bµim theo s¸ch gi¸o khoa. b) T­¬ng tù phÇn a - Yêu cầu tự làm - Một số HS làm, - Khi b¾t ®Çu ®i, xe m¸y c¸ch xe ®¹p bao bài, chữa bài cả lớp làm vở nhiªu km? - Sau mçi giê ®i xe m¸y ®Õn gÇn xe ®¹p - Nhận xét, cho - Cả lớp làm vở bao nhiªu km? điểm - TÝnh thêi gian ®Ó xe m¸y ®uæi kÞp xe ®¹p? - PhÇn b: ph¶i t×m xem lóc khëi hµnh xe m¸y c¸ch xe ®¹p bao nhiªu km ®ã chÝnh lµ qu·ng ®­êng xe ®¹p ®· ®i tr­íc trong 3 giê: §/S: 1,5 giê * Bµi 2: - §/S: 4,5 km - Yêu cầu tự làm - 1HS nªu ®Ò bµi. - Một số HS làm, * Bµi 3: cả lớp làm vở Gîi ý: BiÕt xe m¸y ®i tr­íc «t« bao nhiªu l©u sÏ ¸p dông c¸ch - Gîi ý cho häc sinh - 1HS nªu ®Ò bµi. lµm t­¬ng tù bµi 1 (b ) sù kh¸c nhau gi÷a - Một số HS làm §/S: 16 giê 7phót phÇn b, víi phÇn a bảng phụ, cả lớp làm vở 3. Cñng cè - DÆn dß: - Nhận xét, cho - Cả lớp l m vở C«ng thøc: điểm à T ®uæi kÞp nhau = s : hiÖu 2 vËn tèc 3’ - NhËn xÐt tiÕt häc. 25
  12. “Kinh nghiệm dạy các bài toán về chuyển động đều cho học sinh lớp 5” PHẦN III KẾT LUẬN – KHUYẾN NGHỊ I. Những bài học kinh nghiệm rút ra cho bản thân Trong quá trình làm đề tài, tôi đã rút ra một số kinh nghiệm như sau: Muốn dạy tốt môn toán, giúp HS hiểu, làm tốt các bài tập trước hết giáo viên phải hiểu và nắm chắc các kiến thức và kỹ năng dạy, các biện pháp tính, đồng thời phải biết hướng khai thác để giúp trẻ phát triển tư duy, sáng tạo trong dạy học toán. Muốn có giờ dạy học tốt, GV phải thực sự phải có lòng yêu nghề mến trẻ không ngại khó, ngại khổ mà phải đào sâu suy nghĩ, tích cực sáng tạo tìm tòi cái mới để dạy. Có như vậy bài giảng mới thành công. Để đảm bảo mục tiêu của GV hiện đại, trong quá trình dạy học, người GV phải dạy cho HS những kỹ năng quan sát, phân tích, đặt vấn đề và lập kế hoạch giải quyết vấn đề đó, rèn cho HS tính kiên nhẫn, tinh thần say mê dưới sự gợi mở của thầy. Trong đánh giá, việc chấm tay đôi hoặc để HS tự chấm bài mình và bài bạn là một điều hết sức quan trọng. Trong quá trình ấy người GV sẽ trực tiếp chỉ ra cho HS được cái hay trong khi làm bài tập toán đồng thời cũng là cơ hội cho HS tự đánh giá, nhận xét kết quả làm việc của mình, của bạn. Dùng điểm số để khuyến khích tích sáng tạo tích cực của HS. Dạy học là “ Nghề cao quý nhất trong các nghề cao quý “ Chính vì vậy GV phải luôn luôn tôn trọng nhân cách của trẻ, không được gây ức chế cho HS bởi nếu như vậy sẽ không bao giờ phát triển hết khả năng và sức sáng tạo của các em hãy luôn giữ gìn tâm sự để có thể trở thành người bạn lớn mà các em có thể chia se mọi vấn đề trong học tập cũng như trong cuộc sống. II. Kiến nghị, đề xuất a. Đối với giáo viên Chương trình Tiểu học hiện nay đang có xu hướng giảm tải cho HS, điều đó là hợp lý. Song trong bất kỳ lớp học nào cũng có đầy đủ đối tượng HS: giỏi, 27
  13. “Kinh nghiệm dạy các bài toán về chuyển động đều cho học sinh lớp 5” NhËn xÐt cña héi ®ång xÐt duyÖt SKKN 29