Báo cáo tóm tắt Một số biện pháp nâng cao hiệu quả tiết kể chuyện thông qua kể chuyện tương tác tại trường phổ thông dân tộc bán trú Tiểu học Pa Cheo Huyện Bát Xát - Lý Thị Hiên
Bạn đang xem tài liệu "Báo cáo tóm tắt Một số biện pháp nâng cao hiệu quả tiết kể chuyện thông qua kể chuyện tương tác tại trường phổ thông dân tộc bán trú Tiểu học Pa Cheo Huyện Bát Xát - Lý Thị Hiên", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
bao_cao_tom_tat_mot_so_bien_phap_nang_cao_hieu_qua_tiet_ke_c.docx
Nội dung text: Báo cáo tóm tắt Một số biện pháp nâng cao hiệu quả tiết kể chuyện thông qua kể chuyện tương tác tại trường phổ thông dân tộc bán trú Tiểu học Pa Cheo Huyện Bát Xát - Lý Thị Hiên
- CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập – Tự do – Hạnh phúc BÁO CÁO TÓM TẮT Biện pháp nâng cao chất lượng công tác giảng dạy Tên biện pháp: Một số biện pháp nâng cao hiệu quả tiết kể chuyện thông qua kể chuyện tương tác tại trường PTDTBT TH Pa Cheo Huyện Bát Xát Họ và tên: Lý Thị Hiên Đơn vị công tác: Trường PTDTBT TH Pa Cheo 1. Thực tiễn Môn Tiếng Việt cũng như các bộ môn khác có nhiệm vụ cung cấp cho học sinh 4 kĩ năng cơ bản đó là: “Nghe, nói, đọc, viết”. Trong môn Tiếng Việt có rất nhiều phân môn: Tập đọc, kể chuyện, chính tả, luyện từ và câu, tập viết, tập làm văn...Trong đó phân môn kể chuyện dạy ở bậc tiểu học có tầm quan trọng: tạo cho học sinh tư duy, phân tích tổng hợp, biết cách tóm tắt, diễn đạt rèn kĩ năng nói cho học sinh, giúp học sinh có vốn từ ngữ, kĩ năng kể rõ ràng, diễn cảm, nhập tâm vào nhân vật khi kể, hiểu ý nghĩa nội dung từng câu chuyện, từng kiểu bài kể chuyện. Ngay từ lớp 1 học sinh đã được hình thành kỹ năng kể chuyện, mức độ yêu cầu từng khối lớp tăng dần về kiến thức kỹ năng cũng như yêu cầu các em nghe kể, nhìn tranh kể (Tiết nói – nghe lớp 1). Bằng hình minh hoạ, dựa theo câu hỏi để gợi ý học sinh khi kể, học sinh đã kể theo phân vai (Tiết nói - nghe lớp 2). Biết nhận xét lời kể của bạn, diễn đạt nội dung câu chuyện thể hiện được điệu bộ, cử chỉ nét mặt khi kể câu chuyện có thể thêm từ ngữ khi kể và yêu cầu cao hơn kể như sống với câu chuyện (lớp 3). Càng lên lớp trên kiến thức và mức độ yêu cầu của phân môn kể chuyện đòi hỏi mức độ khi kể cần cao hơn: phân môn kể chuyện ở lớp 4 + 5. Yêu cầu các em hiểu ý nghĩa câu chuyện, nhớ các nhân vật, biết sáng tạo khi kể, thuộc câu chuyện biết dùng lời văn của mình,hình ảnh sinh động đã học từ bộ môn Tiếng Việt và các bộ môn khác học sinh kể như sống với câu chuyện ví dụ kiểu dạng bài chứng kiến hoặc tham gia. Phân môn kể chuyện ở bậc tiểu học là một phân môn khó. Để đạt được mục tiêu và dạy tốt phân môn kể chuyện. Trong năm vừa qua, tập thể giáo viên trường PDTBT TH Pa Cheo chúng tôi đã tích cực vận dụng phương pháp và các hình thức tổ chức dạy học cho phù hợp nhằm giúp cho học sinh rèn kỹ năng nói, cách diễn đạt khi kể, giúp các em nhớ được tên nhân vật, nhớ cốt chuyện, thuộc chuyện và kể cho các bạn nghe nắm vững nội dung yêu cầu mục tiêu đề ra từng kiểu bài kể chuyện giúp các em kể tự nhiên, tự tin khi kể trước các bạn. Thực tế
- 2 trong giảng dạy trường chúng tôi vẫn còn một số giáo viên khi tổ chức các hoạt động dạy trong giờ kể chuyện chưa phát huy được tính tích cực, sáng tạo, năng động của học sinh. Chưa linh hoạt khi xử lí các tình huống có vấn đề khi dạy giờ kể chuyện. Chưa động viên kịp thời học sinh, chưa giúp các em nhập hồn vào nhân vật khi kể dẫn đến giờ học hiệu quả chưa cao. Giáo viên chỉ chú trọng vào việc kể mẫu. Chuẩn bị bài của học sinh chưa chu đáo, tình trạng học sinh không nắm được yêu cầu, nội dung câu chuyện cần kể còn hạn chế. Học sinh còn rụt rè, nhút nhát, thiếu vốn từ khi kể chuyện. Học sinh chưa có thói quen đọc sách, truyện, chưa có kĩ năng kể lại câu chuyện cho người thân nghe. Để khắc phục các tình trạng trên Tôi mạnh dạn đưa ra: “Một số biện pháp nâng cao hiệu quả kể chuyện thông qua kể chuyện tương tác tại trường PTDTBT TH Pa Cheo Huyện Bát Xát” để nâng cao hiệu quả kể chuyện của học sinh. 2. Nội dung của biện pháp 2.1 Mục đích của biện pháp Yêu cầu cần đạt về năng lực đặc thù (Năng lực ngôn ngữ) đối với tiểu học là: Trình bày dễ hiểu các ý tưởng và cảm xúc; bước đầu biết sử dụng cử chỉ, điệu bộ thích hợp khi nói; kể lại được một cách rõ ràng câu chuyện đã đọc, đã nghe; biết chia sẻ, trao đổi những cảm xúc, thái độ, suy nghĩ của mình đối với những vấn đề được nói đến; biết thuyết minh về một đối tượng hay quy trình đơn giản. Nghe hiểu với thái độ phù hợp và nắm được nội dung cơ bản; nhận biết được cảm xúc của người nói; biết cách phản hồi những gì đã nghe. Bởi vậy học sinh nói được đồng nghĩa với việc học sinh phát triển năng lực ngôn ngữ. Việc dạy học kể chuyện cần có sự tương tác tốt giữa giáo viên và học sinh. Toàn ngành Giáo dục Việt Nam đang hướng tới thực hiện chương trình GDPT Mới theo TT 32/ 2018 – TT-BGDĐT ngày 26 tháng 12 năm 2018 ban hành chương trình GDPT mới. Đề ra yêu cầu cần đạt về phẩm chất năng lực của học sinh Tiểu học về 5 phẩm chất 10 năng lực để đào tạo ra những con người sáng tạo, đủ trình độ để đáp ứng với sự phát triển của Kinh tế, Xã hội trong thời kì mới. Đồng thời học sinh cần được phát triển cả những năng lực, phẩm chất đặc thù. 2.2 Tính mới của biện pháp Kể chuyện tương tác là một kĩ năng kể chuyện trong đó cốt truyện không được xác định trước. Người kể chuyện tạo ra bối cảnh, nhân vật và tình huống mà câu chuyện phải giải quyết, nhưng người nghe (cũng là người đọc hoặc người nhập vai) trải nghiệm một câu chuyện độc đáo dựa trên tương tác của giáo viên với thế giới câu chuyện. Khi thực hiện kể chuyện tương tác người kể chuyện thu hút người nghe
- 3 vào câu chuyện thông qua các hình ảnh, các câu hỏi gợi mở và thông qua những hành động cử chỉ kích thích người nghe vào câu chuyện. 2.3.1. Nội dung chi tiết của biện pháp. Để hoàn thành mục đích của giải pháp tôi đã sử dụng một số cách sau 2.3.2. Tự học, tự bồi dưỡng về nghệ thuật kể chuyện đọc và kể chuyện. Ngôn ngữ nghệ thuật ( đọc, kể) của giáo viên có ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển tâm hồn, tình cảm, tâm lí của học sinh. Với ngôn ngữ nghệ thuật bước đầu giáo viên sẽ giúp học sinh nhận ra sự khác nhau của các tình huống hành động, lời nói của các nhân vật trong truyện giúp học sinh nhận ra sự khác nhau giữa ngôn ngữ chuyện, ngôn ngữ đời thường, và ngôn ngữ thơ giàu hình ảnh. Bởi vậy bản thân tôi không ngừng học hỏi, tự nghiên cứu, rèn luyện cách kể chuyện diễn cảm để thu hút học sinh vào câu chuyện của mình và chú ý giọng kể, cử chỉ của giáo viên. Ngoài ra bản thân tôi cũng đi dự giờ học hỏi các đồng nghiệp để vừa nắm được thực trạng học sinh các lớp vừa học hỏi được những biện pháp, kĩ năng của đồng nghiệp 2.3.2. Tập trung sự chú ý của trẻ, khơi gợi trí tò mò của học sinh. Qua thực tế giảng dạy tại trường bản thân tôi nhận học sinh thường mắc: Học sinh không nhớ câu chuyện, hay bỏ xót những chi chi tiết chính của câu chuyện. Kĩ năng kể chuyện các em còn yếu, câu chuyện nghe cô kể, kể chưa thuộc chuyện, diễn đạt lủng củng, đối với kiểu câu chuyện được chứng kiến hoặc tham gia học sinh chưa biết sắp xếp theo trình tự câu chuyện, thời gian lộn xộn, rườm rà chưa hay, đã ảnh hưởng rất lớn chất lượng giờ học, hiệu quả giờ kể chuyện chưa cao. Bởi vậy tôi đã thực hiện khơi gợi sự chú ý và tập trung của học sinh như sau: 2.3.2.1 . Hỏi trước khi đọc truyện Đây là bước đầu tiên khi chuẩn bị đọc truyện rất quan trọng. Bước này giáo viên cần khơi gợi trí tò mò của học sinh vào câu chuyện thông qua các câu hỏi dẫn vào bài. Ví dụ: Câu chuyện: Học trò của cô giáo chim khách Bài 23B Lớp 1 sách cùng học và phát triển năng lực. Giáo viên đặt câu hỏi trước khi đọc truyện: Các em hãy kể tên 1 số loài chim mà em biết? để học sinh phát huy sự hiểu biết của bản thân cho các em kể những điều các em biết
- 4 Sau đó giáo viên sử dụng hình ảnh của câu chuyện để học sinh quan sát và xác định các nhân vật trong chuyện: Chim khách ( cô giáo), chích chòe, tu hú, chim sẻ( học trò) Giáo viên dẫn chuyện: Các bạn có muốn biết là cô giáo chim khách dạy cho các học trò mình điều gì không? Sau đó để trẻ trả lời và giáo viên bắt đầu kể chuyện. 2.3.2.2 . Hỏi trong khi đọc truyện Bước này giáo viên sẽ kể chuyện kèm với những hành động nhập vai vào nhân vật và thể hiện cử chỉ nét mặt, giọng điệu để học sinh thu hút theo các tình tiết trong câu chuyện để cho học sinh sản sinh ra hóoc môn dopamine( hóoc môn hạnh phúc). Đồng thời có thể cho học sinh dự đoán nội dung tiếp theo của câu chuyện sẽ xảy ra như thế nào để kích thích trí tưởng tượng của học sinh. Ví dụ: câu chuyện Đôi cánh của ngựa trắng trang 106 Tiếng Việt lớp 4 Tập 2 Giáo viên kể: Ngày xưa có một chú ngựa trắng, trắng nõn nà như một đám mây trên nền trời xanh. Mẹ chú ta rất yêu chú, lúc nào cũng dặn: - Con phải ở cạnh mẹ đây. Con hãy hí to lên khi mẹ gọi nhé. Ngựa mẹ gọi con suốt ngày và tiếng ngựa non hí cũng thật đáng yêu. Ngựa mẹ sung sướng lắm nên thích dạy cho con tập hí hơn là luyện cho vó con phi dẻo dai. Giáo viên dừng lại hỏi: Cô đố các bạn biết ngựa mẹ thích dạy con làm gì? 1- 2 học sinh trả lời và cho học sinh suy luận tiếp. Vậy ngựa mẹ chỉ chú tâm vào dạy con tập hí chúng mình đoán xem có chuyện gì sẽ xảy ra với ngựa con? Học sinh tiếp tục dự đoán. Giáo viên chốt lại vậy để xem ngựa con sẽ xảy ra chuyện gì tiếp theo các bạn nghe cô kể tiếp nhé. Ngoài ra với những câu chuyện kể theo tranh giáo viên sử dụng tranh minh họa cho học sinh trả lời các câu hỏi khai thác tranh triệt để. Ví dụ: Câu chuyện Học trò của cô giáo chim khách Bài 23B Lớp 1 sách cùng học và phát triển năng lực. Bức tranh 1: Bạn nào cho cô biết. Chích chòe, chim sẻ và tu hú đang học gì? Sau đó để trẻ được trả lời thông qua bức tranh ( học làm tổ) Sau đó giáo viên kể lại nội dung tranh cho học sinh nghe. Đối với bước này việc đặt câu hỏi cho học sinh ở mức độ vừa phải, tránh đặt quá nhiều câu hỏi vì sẽ làm loãng câu chuyện và học sinh mất tập trung, động viên học sinh cũng không nên để học sinh mất tập trung, Ví dụ: Cô thưởng cho bạn 1 tiếng vỗ tay
- 5 2.3.2.3 . Hỏi sau khi đọc truyện Bước này là bước để học sinh hệ thống lại câu chuyện và đưa ra được cảm nhận của bản thân học sinh về câu chuyện. Giáo viên sẽ chốt lại những nội dung học sinh đã dự đoán và đưa ra được nội dung ý nghĩa mà câu chuyện muốn khuyên răn. Hoặc đưa học sinh nhập vai vào nhân vạt để đưa ra những tình huống khác của câu chuyện Ví dụ: Câu chuyện Đôi cánh của ngựa trắng trang 106 Tiếng Việt lớp 4 Tập 2 - Vừa rồi chúng ta đã nghe cô kể câu chuyện đôi cánh của ngựa trắng và nghe các bạn kể lại theo nội dung tranh rồi. Bây giờ bạn nào cho cô biết. Câu chuyện có ý nghĩa gì? Nếu em là ngựa con em sẽ làm gì? Nếu em là ngựa mẹ em sẽ làm gì?.. - Đối với bước này giáo viên cần chú trọng đến việc giáo dục đạo đức thông qua nội dung, ý nghĩa giáo dục của câu chuyện. Đồng thời rèn văn hóa đọc sách, kể lại những câu chuyện hay cho người thân và nhất là học sinh biết đóng vai vào nhân vật. Kể chuyện kết hợp với nét mặt, cử chỉ điệu bộ phù hợp với ngữ cảnh câu chuyện. 2.3.3. Tạo môi trường thân thiện gần gũi với học sinh. Học sinh Tiểu học rất thích được động viên, khích lệ bởi vậy việc tạo môi trường cho các em được học mà chơi, chơi và học sẽ khiến các em sản sinh ra dopamine và tạo sự tương tác với các em tốt nhất để tạo nên môi trường gần gũi và thân thiện. Giáo viên cần tươi cười, tổ chức các hoạt động thu hút các em vào nội dung câu chuyện kể. Động viên khích lệ bằng những hình thức linh hoạt như tràng pháo tay, thả tim, sticker 3. Hiệu quả sau khi thực hiện giải pháp 3.1 Hiệu quả trước khi áp dụng giải pháp Để có cơ sở đánh giá và làm thang đo cho các biện pháp sử dụng, tôi đã tiến hành khảo sát từ tiết học trên lớp, một số tiết học dự giờ học hỏi chuyên môn tại các lớp khối 2 và nhận thấy hiệu quả của biện pháp khi áp dụng rất rõ rệt trong thời gian năm học 2020 – 2021 như sau:, Kết quả khảo sát số học sinh học tập môn kể chuyện của học sinh khối lớp 2 đầu tháng 10/2020 năm học 2020- 2021 trường PTDTBTTH Pa Cheo Tổng số Kể được Tỷ lệ Kể được 1-2 Tỷ lệ Chưa biết Tỷ lệ học sinh toàn bộ câu câu về nội kể chuyện
- 6 chuyện dung tranh 100 10 10% 35 35% 55 55% 3.2. Hiệu quả sau khi áp dụng giải pháp Qua quá trình thực hiện các biện pháp nêu trên vào việc lên lớp và bồi dưỡng cho học sinh có chuyển biến rõ rệt, có ý thức cao, tập trung vào giờ học và tích cực thực hành trong các tiết học cụ thể như sau: sau 6 tháng thực hành với 24 tiết học. Kết quả khảo sát số học sinh học tập môn kể chuyện của học sinh khối lớp 2 đầu tháng 5/2021 năm học 2020- 2021 trường PTDTBTTH Pa Cheo Tổng số Kể được Tỷ lệ Kể được Tỷ lệ Chưa biết Tỷ lệ học sinh toàn bộ 1-2 câu về kể chuyện câu nội dung chuyện tranh 100 65 65 % 34 34% 1 1% Ngoài ra giải pháp cũng là nền móng cho việc thực hiện văn hóa đọc sách tại trường, giáo dục đạo đức học sinh thông qua những nội dung truyện kể, đồng thời khuyến khích học sinh về kể lại những câu chuyện cho người thân. Học sinh bạo dạn tự tin khi kể chuyện và kể được câu chuyện với cử chỉ, điệu bộ nhập vai vào nhân vật. 4. Khả năng áp dụng của giải pháp. Giải pháp kể chuyện tương tác đã áp dụng có hiệu quả trong toàn trường và được công nhận tại trường PTDTBT TH Pa Cheo, được các giáo viên trong toàn trường cùng nhau áp dụng và đem lại hiệu quả cao. Giải pháp không chỉ sử dụng cho riêng phân môn này mà đối với tất cả các môn học khác như giáo dục lối sống, Hoạt động trải nghiệm, cũng đều có thể sử dụng. Nên giải pháp này có thể áp dụng ở các trường trong cụm và tất cả các tiết học kể chuyện các khối lớp ở Tiểu học. 5. Tài liệu kèm theo ( Có hình ảnh kèm theo) Xác nhận hiệu quả vận dụng của biện pháp Pa Cheo, ngày 19 tháng 10 năm 2021 Người báo cáo .. (Kí ghi rõ họ tên) . Thủ trưởng (Kí tên, đóng dấu) Lý Thị Hiên
- 8 MỘT SỐ HÌNH ẢNH MINH CHỨNG Trước khi áp dụng: Giáo viên thường kể chuyện, học sinh nghe và quan sát trong sách, 1 số học sinh không chú ý đến lời kể của giáo viên.
- 9 Giáo viên chú tâm trong kể chuyện, Học sinh chưa được thu hút vào câu chuyện. Khi áp dụng:
- 10 Bản thân giáo viên tự nghiên cứu, học hỏi các tài liệu và kĩ năng phương pháp Dự giờ học hỏi đồng nghiệp
- 11 Giáo viên thu hút học sinh bằng những đồ dùng trực quan và khai thác nội dung tranh triệt để.
- 12 Quá trình kể chuyện giáo viên vừa kể vừa hỏi để tăng sự tương tác với học sinh .
- 13 Tạo môi trường thân thiện cho học sinh để học sinh tăng tương tác với học sinh
- 14 Sau khi áp dụng : Rèn văn hóa đọc cho học sinh.
- 15 Học sinh tự tin khi chia sẻ.
- 16 Giáo viên trong trường cùng nhau áp dụng vào các tiết dạy
- 17 Học sinh tự giác đến với những góc đọc trong nhà trường.

