Bài giảng Lịch sử và Địa lí Lớp 5 (Kết nối tri thức) - Bài 9: Triều Lý và việc định đô ở Thăng Long

pptx 21 trang Ngọc Trâm 10/10/2025 60
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Bài giảng Lịch sử và Địa lí Lớp 5 (Kết nối tri thức) - Bài 9: Triều Lý và việc định đô ở Thăng Long", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pptxbai_giang_lich_su_va_dia_li_lop_5_ket_noi_tri_thuc_bai_9_tri.pptx

Nội dung text: Bài giảng Lịch sử và Địa lí Lớp 5 (Kết nối tri thức) - Bài 9: Triều Lý và việc định đô ở Thăng Long

  1. Hãy chia sẻ những điều đã biết về vua Lý Thái Tổ.
  2. Vua Lý Thái Tổ (sinh ngày 8/3/974, mất ngày 31/3/1028) là hoàng đế sáng lập ra nhà Lý (hay còn gọi là Hậu Lý để phân biệt với nhà Tiền Lý do Lý Nam Đế sáng lập) trong lịch sử Việt Nam, trị vì từ năm 1009 đến khi qua đời vào năm 1028.
  3. Hoạt động 1: Sự thành lập Triều Lý và việc dời đô
  4. Đọc các thông tin trong SGK và cho biết: • Triều Lý được thành lập vào năm nào ? Ai là người sáng lập? Triều Lý được thành lập năm 1009, người sáng lập ra Triều Lý là Lý Công Uẩn
  5. Đọc thông tin mục 1 trong SGK trang 40, 41, thảo luận theo cặp theo yêu cầu sau: 1. Nêu sự thành lập Triều Lý. 2. Vì sao Lý Thái Tổ quyết định dời đô từ Hoa Lư về Đại La? 3. Nhận xét về nội dung và ý nghĩa của “Chiếu dời đô”.
  6. Nêu sự thành lập Triều Lý. Lý Công Uẩn là người châu Cổ Pháp (nay là Từ Sơn, Bắc Ninh). Ông vốn là người thông minh, tài đức. Năm 1009, vua Lê Long Đĩnh mất, các quan trong triều đình đã suy tôn Lý Công Uẩn lên làm vua (hiệu là Lý Thái Tổ), lập ra nhà Lý
  7. Vì sao Lý Thái Tổ quyết định dời đô từ Hoa Lư về Đại La? Lý Thái Tổ quyết định dời đô từ Hoa Lư về Đại La vì vua nhận thấy kinh đô Hoa Lư (Ninh Bình) chật hẹp, không còn phù hợp cho sự phát triển của đất nước, năm 1010, vua Lý Thái Tổ viết Chiếu dời đô quyết định dời đô từ Hoa Lư đến thành Đại La và đổi tên Đại La thành Thăng Long.
  8. Nhận xét về nội dung và ý nghĩa của “Chiếu dời đô”. “Chiếu dời đô” thể hiện tầm nhìn sáng suốt của vua Lý Thái Tổ. Việc định đô ở Thăng Long đã mở ra thời kì phát triển mới của đất nước.
  9. Sách Đại Việt sử ký toàn thư chép: Mùa thu, tháng 7 năm 1010, vua Lý Thái Tổ từ thành Hoa Lư dời đô ra thành Đại La, tạm đỗ thuyền dưới thành, có rồng vàng hiện lên, nhân đó đổi tên thành gọi là thành Thăng Long (rồng bay lên). Bản Chiếu dời đô đã thể hiện những ý nghĩa sâu sắc, tầm nhìn thời đại của vua Lý Thái Tổ khi ông chọn Đại La làm kinh đô mới để mưu nghiệp lớn, tính kế phồn vinh, trường kỳ cho muôn đời sau. Bản chiếu nêu bật được vai trò kinh đô Thăng Long xứng đáng là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa của quốc gia. Sau đó, Thăng Long vẫn là kinh đô của các nhà Trần, nhà Hậu Lê, nhà Mạc, nhà Lê trung hưng và Thăng Long cũng chính là thủ đô Hà Nội của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam bây giờ.
  10. Kể tóm tắt câu chuyện về Lý Công Uẩn, trong đó có sử dụng các cụm từ sau: năm 1009, Hoa Lư, dời đô, Đại La, Thăng Long.
  11. Ví dụ: Lý Công Uẩn là người châu Cổ Pháp, vốn là người thông minh, tài đức. Năm 1009, vua Lê Long Đĩnh mất, các quan trong triều đình đã suy tôn Lý Công Uẩn lên làm vua (hiệu là Lý Thái Tổ), lập ra nhà Lý. Nhận thấy kinh đô Hoa Lư (Ninh Bình) chật hẹp, không còn phù hợp cho sự phát triển của đất nước, năm 1010, vua Lý Thái Tổ viết Chiếu dời đô quyết định dời đô từ Hoa Lư đến thành Đại La và đổi tên Đại La thành Thăng Long.
  12. Sưu tầm thông tin (tư liệu, hình ảnh,...) về một nhân vật thời Lý mà em ấn tượng và chia sẻ với mọi người.
  13. Những chiến công rạng danh lịch sử của Thái úy Lý Thường Kiệt - Năm 1061 người Mường ở biên giới Thanh Hóa, Nghệ An quấy rồi, Lý Thường Kiệt được lệnh đi dẹp loạn. Thế nhưng ông chủ trương không dùng bạo lực, mà cố gắng thu phục nhân tâm. Từ đó ông đã thu phục được dân Mường, giúp ổn định vùng biên giới phía Nam. - Băm 1069, Lý Thường Kiệt cùng vua Lý Thánh Tông đem quân trấn áp Chăm-pa, đập tan ý đồ phối hợp với quân Tống của Chăm-pa. Vua Chiêm là Chế Củ phải chạy trốn đến biên giới với Chân Lạp thì không dám vượt sang vì có hiềm thù với Chân Lạp, nên phải đầu hàng Lý Thường Kiệt. Sau đó Chế Củ phải dâng 3 châu cho Đại Việt. - Trong những năm 1075 – 1077, Lý Thường Kiệt lãnh đạo nhân dân Đại Việt tiến hành cuộc kháng chiến chống quân Tống xâm lược, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền của đất nước. - Năm 1104 vua Chiêm Thành là Chế Ma Na đem quân tiến đánh, chiếm lại các vùng đất mà vua Chế Củ đã nhượng lại cho Đại Việt trước đây. Lý Thường Kiệt lúc này đã 86 tuổi vẫn đưa quân về phía Nam đánh bại quân Chiêm Thành. Chế Ma Na phải nộp lại đất cho Đại Việt.